Tumgik
#Hãng Lecia
vuanhiepanh · 7 years
Text
Bàn luận về chất ảnh của Lecia
Đây là một bài viết rất thú vị từ Irakly Shanidze, một nhiếp ảnh ra sinh ra tại Georgia và hiện tại khá nổi tiếng với những sản phẩm cho các tạp chí ảnh nổi tiếng ở cả Nga và Mỹ. Mời các bạn cùng theo dõi và xem anh chia sẻ quan điểm về “chất Leica” danh tiếng mà chúng ta vẫn luôn tò mò và đam mê.
  Điều gì đã làm cho những bức ảnh được chụp từ Leica trở nên khác biệt?
Vào thời kỳ khi nhiếp ảnh film vẫn còn phổ biến, Irakly thường dành nhiều thời gian với cô con gái của anh trong một trò chơi nhỏ: anh bày một loạt slide từ film 35mm trên bàn và hỏi cô bé hãy chọn ra một bức hình mà cô bé thích nhất. Và đa phần, cô bé chỉ chọn những bức hình được chụp từ Leica M, hoặc từ những ống kính Carl Zeiss. Chắc chắn có một điều gì đó đặc biệt với những ống kính này khiến cho một cô bé chỉ mới 9 tuổi chú ý và cảm nhận. Irakly cũng vậy, anh có thể nhìn ra được sự khác biệt giữa Zeiss và Leica, nhưng để chỉ chính xác đâu là bức hình được chụp từ ống kính nào và sự khác nhau giữa chúng là gì thì anh phải mất 10 năm mới nhận ra được điều đó. 10 năm làm nghề để Irakly có thể chỉ ra được sự khác biệt giữa Leica và tất cả các ống kính khác là cái gì.
Irakly cho rằng để giải thích được hiện tượng này là một điều quan trọng, vì rất tình cờ, một số lượng lớn những tấm ảnh nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 lại được chụp với Leica M. Tất cả những bức hình đó đều rất xuất sắc, mặc dù cơ chế hoạt động của những chiếc máy Rangefinder thì lại không thân thiện một tí nào. Đối với đa phần những chiếc máy khác, phổ biến là dòng máy ảnh SLR, bạn có thể mường tượng trước bức ảnh của mình qua ống ngắm quang, nhưng với Leica M thì không. Và còn một số yếu tố hữu dụng khác như lấy nét tự động, ống kính zoom hay chế độ đo sáng tự động chẳng hạn…
Người ta hay nói đùa rằng Leica có ma thuật (magic) để tạo nên những bức ảnh để đời, nhưng chỉ nói bâng quơ như vậy thì sẽ không có ý nghĩa. Với Irakly, anh đã cố gắng đi tìm một lời giải thích hợp lý về mặt khoa học cho hiện tượng này và cho đến thời điểm hiện tại, Irakly nghĩ là anh đã có một lời giải thích tương đối phù hợp. Và câu trả lời chưa chắc đã làm thoả mãn đa số…
Nếu một bức ảnh được chụp với Leica, nó sẽ không tự động có “Chất Leica”. “Chất Leica” chỉ thể hiện trong 2 trường hợp: một là người chụp biết cách tận dụng những tính chất độc đáo của Leica, hai là….hoàn toàn là do “chó ngáp phải ruồi”, hay gọi vui vẻ hơn là may mắn.
Lý do để cho những bức ảnh chụp từ Leica trở nên khác biệt so với đa số phần còn lại là sự kết hợp của rất nhiều yếu tố. Nổi bật chính là hiệu ứng hay được gọi là “Leica Glow”, sự thể hiện vùng chuyển mềm mại và màu sắc nổi bật. Một số yếu tố khác thì lại rất khó để chỉ ra, nhiều yếu tố còn thậm chí không liên quan gì đến những tính chất quang học của ống kính.
Leica M8, Summilux 1.4/35 ASPH, 1/60, ISO640
Đầu tiên, cách mà Leica (và một số ống kính Carl Zeiss) tái tạo lại hình ảnh là “không thực tế”. Tại sao các bức ảnh lại đẹp và gây ấn tượng như thế? Bởi vì nó không thật, và đẹp hơn trên thực tế. Hãy nghe Irakly giải thích. Bạn có nhớ lần đầu tiên bạn đeo kính Polarized phân cực không? Đầu tiên bạn nhìn lên trên bầu trời, trời rất sáng và có thể nhìn thấy rất ít các đám mây, rồi bạn đeo chiếc RayBans lên mắt, đột nhiên…trời thì xanh, mây thì rõ, đầy màu sắc, đủ hình dạng, như nhìn những hình ảnh 3D trên bầu trời, và tuyệt hơn nữa, bạn không cần phải nheo mắt lại mới nhìn thấy! Nhìn nó có như thật không? Chắc chắn là không! Nó có đáng tin không?
Bạn nghĩ xem, nó thật, nó đáng tin bởi vì chúng ta muốn nó đẹp như thế! Con người thì luôn tìm kiếm cái đẹp, chúng ta muốn mọi sự mọi vật phải đẹp đẽ, vì như vậy thì chúng ta mới có cảm giác dễ chịu. Vậy “đẹp và dễ chịu” trong trường hợp này có ý nghĩa như thế nào? Nó giống như khi bạn đeo kính phân cực, bạn dễ dàng nhìn thấy cái đẹp mà không mất nhiều công sức. Một ví dụ khác là về kính lúp chả hạn, bạn sử dụng kính lúp hay đeo chúng vào, đột nhiên từng chi tiết được hiển thị đẹp đẽ. Một bức ảnh được chụp với Leica cũng vậy, nó là sự kết hợp của kính phân cực và kính lúp: tương phản cao, chi tiết tuyệt vời ở những điểm mà bạn thích, sự mềm mại ở những khu vực rìa không phải trung tâm của bức ảnh, và bạn không cần phải tốn nhiều công sức để cảm nhận toàn bộ những dải màu tuyệt vời trên toàn khung hình. Tất cả những điều này làm cho bức ảnh có cảm giác không gian 3 chiều, làm bạn có cảm giác bạn chỉ cần đưa tay cũng có thể chạm tới chủ thể vậy.
Irakly cũng chia sẻ thêm, anh cảm giác sự khác biệt giữa Leica và Zeiss ở đây, là cả 2 tuy đều đem lại hiệu ứng không gian 3 chiều, nhưng Leica có chiều sâu hơn, còn Zeiss thì cho cảm giác như bức ảnh là cả một mặt phẳng và chủ thể là một hiệu ứng 3D đang nổi trên đó.
Contax N Digital, Carl Zeiss 1.4/85 T*
Vậy, còn những yếu tố nào khác nữa tạo nên sự khác biệt này? Có lẽ ta nên bắt đầu với những yếu tố rõ ràng trước, “mơ hồ” sau.
Bokeh của Leica
“Bokeh” xuất phát từ một từ tiếng Nhật (boke ぼけ, danh từ của “bokeru” ぼける, nghĩa là “nhòe”), mô tả về vùng nằm ngoài khoảng nét, vùng bị nhòa mờ. Ống kính Leica tạo ra hiệu ứng bokeh rất dễ chịu với mắtmắt, những điểm sáng thì tạo nên những hình tròn hay tương đối tròn với màu sắc đồng đều khi chụp ở khẩu lớn nhất. Loại bokeh này được gọi là trung tính (neutral). Một số ống kính khác thì có bokeh và những điểm sáng tạo thành hình tròn và sáng nhất ở trung tâm, ra đến rìa thì tối dần. Loại bokeh này được gọi là “positive” và nhìn rất đẹp. Bokeh thì hoàn toàn là ý kiến chủ quan của mỗi cá nhân, nên việc tranh luận loại bokeh nào đẹp hơn thì thật vô nghĩa. Còn loại bokeh mà ở rìa lại sáng hơn ở trung tâm thì gọi là bokeh “negative”. Hầu hết các ống kính zoom hay ống kính prime chất lượng thấp thì đều có kiểu bokeh này, và đa phần khi khảo sát, rất ít người thích hiệu ứng bokeh “negative”.
Leica SL, Noctilux 1.0/50, f/1б 1/125, ISO1600
Khi khép khẩu, một yếu tố khác cần phải đưa vào cân nhắc: chính là “số lượng lá khẩu”, có ảnh hưởng trực tiếp đến hình dạng bokeh. Ống kính Leica thường có ít nhất 9 lá khẩu, tạo nên hình tròn đẹp khi khép khẩu. Ống kính nào có số lá khẩu ít hơn thì hay tạo thành những hình dạng đa giác khác, nhưng không có nghĩa là bokeh từ những ống kính này sẽ xấu: ống kính cực kỳ nổi tiếng Hasselblad Carl Zeiss Planar 80mm f/2.8 CF chỉ có 5 lá khẩu, và bokeh từ ống này có thể nói là một trong những bokeh tuyệt vời nhất từng xuất hiện.
Vùng out-net ở phía trước chủ thể thì thường không được đẹp mắt như vùng xuất hiện phía sau chủ thể, do ống kính thường chỉ được tối ưu vùng out-net cho một phía. Các ống kính thường được tối ưu cho vùng out-net ở phía sau chủ thể, do mặt phẳng hay thấu kính đầu tiên được chăm chút và quan trọng hơn các thấu kính ở phía sau. Ống kính Projection hay enlarger thì lại được chế tạo theo hướng ngược lại. Tuy nhiên cũng có vài trường hợp ngoại lệ, như Carl Zeiss Distagon 55mm f/3.5 cho máy Contax 645AF có vùng bokeh tuyệt đẹp cả ở phía trước và phía sau điểm lấy nét.
Một điểm khác biệt nữa của các ống kính Leica và Zeiss, là chúng luôn giữ được các chi tiết và dải màu ở vùng bokeh, đặc biệt là vùng highlight. Các ống kính chất lượng thấp thì thường làm bệt và mất chi tiết các vùng highlight rất dễ dàng. Các ống kính từ Đức quả thật có một công thức đặc biệt để tạo nên Dynamic Range rất cao trong những sản phẩm của mình.
Bí ẩn về micro-contrast
Các ống kính Leica có độ tương phản rất cao. Điều này có nghĩa là: trong một bức ảnh với dải màu rộng, màu đen nhìn rất giống màu đen và màu trắng nhìn rất giống màu trắng. Tuy nhiên có nhiều hãng ống kính đã làm ra được những ống kính có độ tương phản cũng cao nhưng giá thành thì rẻ hơn nhiều. Điều làm cho Leica trở nên đặc biệt, chính là có micro-contrast rất cao, hay giải thích rõ hơn, là sự tách biệt giữa các chi tiết chỉ hơi tối hoặc hơi sáng trong những khu vực có sự tương đồng về màu sắc. Micro contrast cao chính là sự giải thích và là yếu tố tạo nên thứ mà chúng ta hay gọi là dải màu rộng, sâu và vùng chuyển mềm mại từ sáng sang tối, tạo nên những hiệu ứng 3 chiều rất thật và dễ chịu.
Leica SL, Noctilux 1.0/50, f/1. ISO3200
Điều quan trọng ta cần hiểu, là micro-contrast không liên quan đến độ nét ở các chi tiết. Ống kính có micro-contrast cao thường không cần phải lấy nét hoàn toàn chính xác đế bức ảnh đạt độ nét “vừa mắt”. Đó cũng là lý do tại sao các ống kính chụp chân dung thường không cần có độ nét tối đa để hiển thị rõ toàn bộ các chi tiết trên vùng da, mà chỉ cần tạo nên hiệu ứng 3 chiều cho toàn bộ khuôn mặt, với đôi mắt và bờ môi nhìn thật sống động mà thôi. Ví dụ như ống kính Summicron 90mm f/2 Pre-ASPH và Noctilux 50mm f/1 là 2 ống kính rất xuất sắc trong khoản này.
Mức độ micro-contrast thì lại ngược với số lượng thấu kính và thành phần trong mỗi ống kính. Lý do chính là, mỗi thấu kính hay mỗi thành phần thì đều có 2 bề mặt, mỗi bề mặt lại tạo nên những nguồn phản xạ bên trong. Càng ít sự phản xạ thì độ tương phản càng cao, chỉ đơn giản như vậy thôi!
Đó là lý do tại sao ống kính có hệ thấu kính bên trong phức tạp (ống zoom) thường có độ tương phản thấp. Ống kính Leica M thì lại có công thức khá đơn giản. Nếu so sánh với những ống kính prime SLR, ống kính của máy rangefinder thường ít hơn 2 thấu kính ở phía sau. Ống kính SLR thường bắt buộc phải có 2 thấu kính ở phía sau để phù hợp với cơ chế hoạt động gương lật, đáp ứng khoảng cách giữa ống kính và cảm biến của máy. Ống kính Leica M thì không bị hạn chế bởi yếu tố này, nên chúng thường nhỏ hơn, nhẹ hơn và chất lượng ảnh thì thường là tốt hơn rất nhiều.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, ống kính Leica và Carl Zeiss SLR, cả ống prime và ống zoom, đều có độ tương phản rất cao dù có công thức thấu kính phức tạp, điều này là do những lớp tráng phủ đặc biệt và độc quyền của mỗi hãng. Mặc dù tất cả các ống kính ngày nay đều có nhiều lớp tráng phủ, Zeiss và Leica vẫn cho thấy chất lượng vượt trội và giữ được bí mật tuyệt đối về công thức của mình.
Leica SL, Vario-Elmar-R 4/35-70 ROM
Có lẽ cần phải đính chính lại rằng, tuyên bố “ống kính luôn có micro contrast cao” là không hoàn toàn chính xác. Ống kính Leica “có khả năng” tạo ra bức ảnh có micro contrast cao thì hợp lý hơn, khi loại bỏ được hết tất cả những phản xạ nội bộ có thể xuất hiện khi chụp ảnh. Ví dụ như:
Luôn sử dụng Hood: bảo vệ cho thấu kính trước khỏi các tia nắng mặt trời ở mọi góc độ, tạo ra những phản xạ bên trong ống kính.
Filter cũng không nên dùng bừa bãi. Filter lại tạo thêm 2 mặt phẳng để xuất hiện thêm những phản xạ nội bộ. Hạn chế sử dụng UV filter, trừ phi bạn thực sự cần “bảo vệ” ống kính, khi leo núi hay chụp ngoài biển….
Tuy nhiên, kể cả khi bạn đáp ứng đủ các điều kiện trên, micro contrast cao cũng phải phụ thuộc vào các điều kiện ánh sáng cụ thể: ánh sáng chủ đạo phải mềm mại, tương phản cao và đúng góc.
Khả năng tạo Micro-contrast cao của một ống kính sẽ được tối ưu nhất khi nguồn s��ng mềm mại và giàu tính tương phản, đồng thời sự phản xạ nội bộ trong ống kính cũng được tối giản tuyệt đối. Micro-contrast không liên quan đến độ nét. Trong một nghĩa nào đó, ống kính có micro-contrast cao có thể tái tạo thị giác con người: chúng ta nhìn vào toàn bộ bức ảnh chứ không zoom và nhìn vào các chi tiết nhỏ. Chúng ta thấy một hình ảnh “giống thật” nhất khi có sự hoà hợp về màu sắc và chiều sâu. Leica không bao giờ dẫn đầu trong cuộc chiến về megapixels, đơn giản là nó không cần: ảnh chụp từ Leica luôn có chất, và luôn “giống thật” không phải vì nó đạt độ nét hoàn hảo cho từng chi tiết, mà vì nó tái tạo toàn bộ khung hình với dải màu sâu và gần với mắt người nhất.
Leica Glow
Một trong số những đặc điểm về quang học hay bị hiểu nhầm nhất của Leica chính là “Leica Glow”. “Leica glow” giống như một đám mây mờ xung quanh chi tiết highlight, không phải là tính năng mà những kỹ sư của Leica cố tình sản xuất ra và tự hào về nó, đơn giản, nó là những quang sai và hiệu ứng quang học không thể tránh khỏi trong những ống kính khẩu lớn, và thường ở những ống kính góc rộng. Hiệu ứng Glow này mang lại cho ống kính Leica một đặc điểm riêng biệt, trong nhiều trường hợp thì rất hữu dụng. Điều làm cho Leica Glow khác với hiệu ứng Glow của những ống kính như Canon 50mm f/0.95 là ở chỗ, Leica và Zeiss vẫn đảm bảo có độ tương phản và micro-contrast tốt, kể cả khi có hiệu ứng đám mây mờ. Ống kính từ những nhà sản xuất khác, mặc dù cũng có hiệu ứng Glow, nhưng độ tương phản thì cực thấp, và đa phần làm cho những bức ảnh khó có thể sử dụng được (Canon, Jupiter, Helios…).
Nhưng không phải tất cả ống kính Leica đều có hiệu ứng này. Các ống kính ASPH hiện tại đã khắc phục được tối đa tất cả các hiện tượng quang sai. Các ống kính Summilux Summicron cũ hơn (ngoại trừ 50mm f/2) đều có hiện tượng này. Kết hợp với micro-contrast tốt, hiệu ứng Glow lại cho ra những bức ảnh rất khác biệt, tạo nên chất riêng biệt của Leica so với phần còn lại.
Hiệu ứng Glow thường xuất hiện ở khẩu lớn nhất, và biến mất hoàn toàn khi khép xuống f/4. Có một vài trường hợp ngoại lệ trong số những ống kính mới mà hiệu ứng này vẫn xuất hiện là ống kính Vario-Elmarit-SL 24-90mm f/2.8~4 và ống kính Vario-Elmar-T 18-56mm f/4.5~5.6. Những ống kính zoom của Leica-R cũng có hiện tượng này.
Một số ống kính hiện nay nổi tiếng với hiệu ứng Glow có thể kể đến sau đây:
Summilux 35mm f/1.4 Pre-ASPH: một ống kính nhỏ gọn với đặc tính vượt trội. Hầu như không bị méo, độ nét cực tốt và Dynamic range rất cao. Hiệu ứng Glow xuất hiện từ f/1.4 đến f/2, biến mất hoàn toàn khi khép xuống f/2.8, và độ tương phản cũng sẽ tăng vọt cùng lúc với việc khép khẩu. Nhiều lúc bạn sẽ có cảm giác như bạn đang chụp 2 ống kính hoàn toàn khác biệt ở giữa các khẩu.
Leica M8, Summilux 1.4/35 Pre-ASPH, f/1.4, 1/125, ISO640
Hiệu ứng Glow trong bức ảnh trên thể hiện khá rõ: hiện rất rõ ở trên tay của mẫu còn ở trên vai thì rất ít. Hiệu ứng này làm cho da của mẫu trong mềm mại và mơ màng hơn. Ống kính này khá phù hợp với Leica M8, tạo nên góc nhìn cơ bản (50mm) do cảm biến crop 1.33x.
Hiệu ứng Glow của Noctilux 50mm f/1 thì lại khác: nó ít bao phủ xung quanh chủ thể hơn mà tập trung nhiều hơn vào khu vực out-net. Với ánh sáng phù hợp, nó có thể làm cho vùng da của mẫu như đang toả sáng từ bên trong.
Leica M9, Noctilux 1/50, f/1, 1/1000, ISO320
Summilux 75mm f/1.4 có một hiệu ứng đặc biệt: ngoài việc có hiệu ứng Glow vùng Highlight như những ống Leica khác ở khẩu lớn, nó còn tao nên ánh sáng mờ ảo ở các khu vực nét rìa trong những vùng có tương phản tốt. Hiệu ứng này xuất hiện rõ nhất ở các khẩu nhỏ như f/5.6 khi Glow không xuất hiện ở khu vực Highlight.
Leica M9, Summilux 1.4/75, f/5.6
Summicron 90mm f/2 Pre-ASPH có sự tinh tế và nhẹ nhàng nhất, hiệu ứng Glow chỉ xuất hiện tại f/2. Hiệu ứng này kết hợp với bokeh tuyệt vời và micro-contrast cao đã tạo nên một trong những ống kính có “chất Leica” rõ ràng nhất.
Leica M9, Summicron 2/90, f/2, 1/125, ISO160
Thiết kế ống ngắm (Viewfinder)
Một yếu tố không rõ ràng, nhưng lại khá quan trọng góp phần tạo nên “Chất Leica” chính là thiết kế ống ngắm của những chiếc máy Leica M. Không giống như máy SLR, ống ngắm của Leica M luôn luôn sáng rực, bất kể khẩu độ của ống kính là bao nhiêu. Điều này làm cho việc lấy nét trên Rangefinder cũng rất dễ chịu. Ngoài việc ống ngắm luôn luôn sáng, thiết kế rangefinder cũng có một số đặc điểm đặc biệt sau:
Nó không thể hiện Độ sâu trường ảnh (DOF) và độ méo của góc nhìn trên ống kính. Điều này có thể không thuận tiện, nhưng đa phần những người đã quen với rangefinder lại cho rằng đó không phải là vấn đề. Theo quan điểm của họ, điều này giúp cho họ không bị mất tập trung bởi những hiệu ứng “tiêu cực” của ống kính mà chỉ tập trung vào “nội dung và bố cục” của bức ảnh. Thay vì tập trung vào việc DOF sẽ được tái hiện ra sao, ống kính sẽ cho ra hiệu ứng tiêu cự như thế nào, họ lại tập trung hơn vào nội dung và sự hoà hợp về hình ảnh.
Ống ngắm của Leica M có góc nhìn không thay đổi. Với những ống kính dài hơn 28mm, frameline sẽ hiện ra nhỏ hơn trong ống ngắm. Điều này giúp người chụp có thể nhìn rõ sự vật hay con người trước khi họ bước vào khung hình, giúp cho việc bố cục và chuẩn bị sẽ dễ dàng hơn. Đặc điểm này rất hữu ích với việc chụp đường phố và candid, khi sự chuẩn bị và yếu tố may mắn đóng vai trò quan trọng.
Trong hầu hết các máy rangefinder, độ phóng đại của ống ngắm là 0.75x-1x, và không thay đổi với bất kỳ ống kính nào. Nó giúp người chụp có thể mở cả 2 mắt và để ý tốt hơn đến môi trường xung quanh. Hầu hết những người chụp đường phố đều dần dần chuyển từ SLR sang rangefinder. Điều thú vị là, với cả ảnh chân dung và phong cảnh, việc chụp với rangefinder cũng đem lại những chất riêng biệt và ấn tượng.
Do ống ngắm không liên hệ với cơ chế của màn trập, khi chụp ống ngắm sẽ không bị đen hay mờ đi. Nó giúp người chụp có thể nhìn khung cảnh khi họ bấm nút. Với người chụp SLR, họ sẽ bị mù trong khoảnh khắc bấm nút chụp và không kiểm soát hay dự đoán được hình ảnh trong khoảnh khắc đó là gì. Đó là lý do tại sao bức ảnh chụp với Leica M thường ít mang yếu tố “may mắn” hơn do người chụp đã kiểm soát hoàn toàn khoảnh khắc mà họ quyết định.
Lấy nét bằng tay
Điều này nghe sẽ vô lý với rất nhiều người, nhưng việc lấy nét bằng tay với rangefinder đôi khi lại nhanh hơn lấy nét tự động, và đặc biệt, đáng tin cậy hơn trong điều kiện thiếu sáng. Khi lấy nét bằng tay với ống kính SLR, sử dụng cơ chế lấy nét cắt, bạn sẽ mất rất nhiều thời gian quay đi quay lại để xác định xem chủ thể đã đúng nét chưa. Với ống kính khẩu lớn thì không vấn đề gì, nhưng với ống kính khẩu nhỏ thì ống ngắm sẽ rất thiếu sáng. Còn với rangefinder, ống ngắm luôn luôn sáng, bất kể khẩu độ là bao nhiêu đi nữa và bạn sẽ không phải đoán mò: nếu bạn nhìn thấy 2 hình ảnh, tức là out-net, nếu bạn chỉ thấy một, bạn lấy nét chắc chắn chuẩn.
Tuy nhiên, không có “cơ chế lấy nét liên tục bằng tay” đối với Leica M. Đây là một hạn chế mà người chụp Leica M phải biết cách sử dụng để chup những chủ thể chuyển động. Thay vì chụp liên tục và hy vọng có một bức ảnh đúng nét, bạn phải nắm bắt được chuyển động của chủ thể, lấy nét trước vào khu vực bạn cần và bấm nút chụp khi chủ thể đi vào khu vực đó. Nghe thì có vẻ khó, nhưng một khi bạn đã làm chủ được kỹ thuật này, nó còn đáng tin cậy hơn là cơ chế “đuổi nét” (tracking) với lấy nét tự động.
Kết luận
Vậy, tóm lại tất cả những luận điểm trên, “Chất Leica” thực sự là có thật. Không có ma thuật kỳ diệu nào ở đây cả, nó là sự kết hợp của nhiều yếu tố vật lý và quang học, đến cảm nhận của con người để tạo nên một bức ảnh đặc biệt từ Leica. Những ảnh chụp từ Leica không chỉ khác biệt đến từ những ống kính của nó, mà cách chụp của nó cũng khác biệt với đa số phần còn lại. “Chất Leica” là sự tổng hợp của những màu sắc rực rỡ, sự chuyển vùng tinh tế kết hợp với những nội dung giàu cảm xúc, làm cho những bức ảnh có tác động lớn tới thị giác và cảm xúc của con người. Với các công nghệ hiện đại như ngày nay, việc tái tạo lại “Chất Leica” bằng công đoạn hậu kỳ là hoàn toàn có thể, nhưng để có ngay khi vừa chụp xong mà không mất thời gian với Photoshop, thời gian ngồi trên máy tính thực sự là một giá trị cần phải được trân trọng đúng mức.
Theo vsion.vn
0 notes
vuanhiepanh · 8 years
Text
Bài viết mới vừa được đăng tại trang web Tạp chí nhiếp ảnh
Bài viết mới vừa được đăng tại trang web http://vuanhiepanh.vn/2015/12/bi-an-muc-gia-khung-cua-leica-2/
Vì sao máy ảnh Leica luôn đắt tiền
Bài viết này của Leicarumors nhằm giải mã, dù chỉ mang tính chủ quan, mức giá ngất ngưởng của hãng Leica.
Bất cứ khi nào có một tuyên bố liên quan đến việc ra mắt sản phẩm của Leica, lập tức trên mạng xuất hiện những lời bình luận hoặc than phiền về giá.
Máy ảnh Leica luôn nằm trong các topic bình luận về giá. Bài viết này của Leicarumors nhằm giải mã, dù chỉ mang tính chủ quan, mức giá ngất ngưởng của hãng này. Chi phí, thu nhập và lợi nhuận. Đồ thị trên mô tả một cách sơ lược cách thức đặt giá cho một sản phẩm. Đây là một đồ thị đơn giản chỉ nhằm mô tả những gì cơ bản nhất chứ không chú tâm chuyên sâu đề cập đến các điểm chi tiết hơn như “chi phí cận biên” hay “thu nhập cận biên” vốn là những khái niệm không phải dễ hiểu với hầu hết mọi người. Trong đồ thị này, đường màu xanh mô tả chi phí. Để sản xuất bất kỳ sản phẩm nào, cần phải có một khoản đầu tư ban đầu, thường gọi là “vốn”. Số vốn này có thể coi như kiểu “chi phí một lần”, và nó là cố định trong suốt vòng đời của sản phẩm. Vì thế, nếu sản lượng bằng 1, giá thành của một sản phẩm như M9 về cơ bản sẽ tương đương giá thành của cả một nhà máy. Càng sản xuất nhiều M9, số vốn bạn cần thu lại trên mỗi sản phẩm M9 bán ra càng ít. Đồ thị chi phí này sẽ ngày càng tiệm cận tới hạn khi sản lượng (trục x) tăng dần. Giới hạn cận dưới là chi phí sản xuất. Nó bao gồm chi phí nhân công, phụ kiện, bảo dưỡng thiết bị, bán hàng, tiếp thị và quản lý trên mỗi sản phẩm M9. Mặc dù các chi phí này giảm dần theo sản lượng, nhưng nó chỉ giảm đến một giới hạn nhất định. Đó là lý do tại sao khi sản lượng có thể tăng vô cực nhưng chi phí không thể giảm tới 0 mà chỉ tới một giới hạn gọi là “giá sàn”, mức giá tối thiểu cần thiết cho việc sản xuất và bán một sản phẩm M9, ngay cả khi nhà sản xuất đã thu đủ được khoản đầu tư ban đầu. Đường thứ 2 màu đỏ là đường thu nhập. Đường này mô tả bao nhiêu sản phẩm M9 một người có thể bán với một giá nào đó và nó cũng là thước đo “tình cảm” của khách hàng đối với sản phẩm đó. Một điều cần lưu ý ở đây là, với đường thu nhập, chi phí trên mỗi sản phẩm quyết định sản lượng bán ra, trong khi với đường chi phí, lượng sản phẩm sản xuất sẽ quyết định chi phí trên mỗi sản phẩm. Điều này khiến cho đồ thị có vẻ hơi phức tạp một chút, bởi lẽ trục x sẽ là biến nguyên nhân của chi phí, trong khi trục y là biến nguyên nhân của thu nhập. Nói tóm lại, đường cong thu nhập được bắt đầu từ điểm mà giá thành quá cao đến mức gần như không ai muốn mua sản phẩm, và xuống tới điểm mà kể cả nhà sản xuất có cho không M9, cũng sẽ chỉ có một lượng người nhất định muốn sở hữu sản phẩm này. Mới nghe thì có thể thấy vô lý khi làm gì có ai lại không muốn lấy M9 khi nó miễn phí. Nhưng nên nhớ rằng không phải ai cũng thích kiểu máy rangefinder như M9, rồi ống kính dành cho máy này quá đắt, rồi người sở hữu M9 cũng không bán được thân máy này cho ai khi muốn đổi máy khác, bởi lẽ nếu đã được miễn phí, không có ai dại gì trả tiền để mua nó cả. Khi sở hữu M9 không đem lại lợi lộc gì, tự nhiên sẽ có một số lượng người nhất định không muốn sở hữu nó. Vì thế, bạn có thể thấy, trong hầu hết trường hợp, đường thu nhập và đường chi phí giao nhau tại hai điểm (trừ phi đường thu nhập rơi xuống dưới cả đường chi phí, ở trường hợp này, nhà sản xuất không thể có lợi nhuận từ việc sản xuất M9 dù bán với bất kỳ giá nào). Ở giữa hai điểm này, chúng ta có một khoảng biến thiên lợi nhuận. Trong khoảng này sẽ có một mức gọi là “điểm ngọt”, mức mà ở đó đường thu nhập xa đường chi phí nhất. Đây cũng là điểm mà ở đó mức lợi nhuận đạt được tối đa, mức mà bất kỳ công ty nào muốn hướng tới. Nhưng trên thực tế, sẽ phức tạp hơn một chút: Lợi nhuận tối đa trên mỗi sản phẩm so với lợi nhuận tối đa tổng thể. Điểm nhà sản xuất muốn đạt lợi nhuận tối đa tổng thể sẽ có mức giá thấp hơn mức giá tại điểm mà họ sẽ đạt lợi nhuận tối đa trên mỗi sản phẩm. Họ hy sinh lợi nhuận trên mỗi sản phẩm một chút, bù lại, họ tăng được sản lượng, bởi lẽ tổng lợi nhuận = (lợi nhuận trên mỗi sản phẩm) x (tổng sản phẩm bán ra). Tuy nhiên, nếu hạ thấp giá thành quá mức, thì dù có tăng thêm thu nhập, nhưng kết cục là tổng lợi nhuận lại giảm. Vì thế, một công ty thông thường luôn có một số lựa chọn nhất định. Nếu họ đặt giá sản phẩm ở trên cả điểm “không ai mua”, sẽ không ai mua sản phẩm của họ cả, vì thế sẽ không có công ty nào làm thế. Nếu tỷ lệ giá thành/sản lượng được đặt tại điểm “X”, nhà sản xuất sẽ không bán được nhiều sản phẩm, và vì thế sẽ không thu được tiền. Nếu đặt ở “A”, chúng ta sẽ có một kiểu chiến lược chỉ có sản phẩm xa xỉ với số lượng rất hạn chế. Nếu chiến lược này áp dụng với Leica, sẽ có vài trường hợp như sau: hoặc có thể là khó tìm được người đủ kỹ năng điều khiển M9, hoặc quản lý chất lượng sẽ không đảm bảo nếu sản xuất với số lượng lớn. Hay có một chi tiết đặc biệt nào đó không thể sản xuất với số lượng nhiều, hoặc nhà sản xuất chỉ muốn mở một cửa hàng nhỏ, làm một công việc nào đó với một lượng nhân công ít ỏi và chỉ làm đủ lượng sản phẩm khiến họ cảm thấy thỏa mãn; họ sẽ vẫn có lợi nhuận, nhưng không quá nhiều. Nếu tỷ lệ giá thành/sản lượng đặt ở điểm “B”, nhà sản xuất có thể kiếm được nhiều tiền nhất có thể trong hoạt động kinh doanh của mình. Nhưng, liệu đó có phải là điều họ thực sự muốn? Đôi khi, thị phần quan trọng hơn lợi nhuận; có thị phần lớn, chẳng hạn như thị phần máy ảnh full-frame, nhà sản xuất có thể bán nhiều ống kính dành cho máy full-frame hơn. Họ có thể cần thêm thu nhập, dù với lợi nhuận thấp hơn, để có thêm tiền mặt làm những dự án ngắn hạn. Họ cũng có thể đặt tỷ lệ này ở mức “C”, hoặc ở mức gần như cho không “D”. Ở mức “D” này, sẽ có rất nhiều người mua M9, và nhà sản xuất sẽ kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán ống kính, bán khung ngắm, motor hay các túi máy ảnh sành điệu thể hiện đẳng cấp của máy ảnh bên trong. Đây chính là chiến lược quen thuộc của các nhà sản xuất máy in màu hoặc các nhà mạng điện thoại. Giá thành của danh tiếng Giờ hãy xem điều gì sẽ xảy ra nếu danh tiếng của một sản phẩm tăng lên. Hãy thử giả định trong bài này, ông chủ Leica, Dr. Kaufmann, về cơ bản rất quan tâm đến việc tối đa hóa lợi nhuận thu được từ sản phẩm M9, có thể để dành thêm tiền để phát triển các sản phẩm mới chẳng hạn. Khi đó, xem hình dưới: Hai phiên bản M9 và M9-P về cơ bản là như nhau và chi phí thực tế cho việc sản xuất chúng ở cùng mức sản lượng có thể coi là gần như nhau. Sau đó giả dụ như có tiếp một sản phẩm M9 mang thương hiệu Panasonic nữa, được làm ở cùng một nhà máy, cùng một linh kiện, có cùng mức chi phí và sản lượng. Rõ ràng dù thích hay không, thì thương hiệu Leica cũng mang một ý nghĩa nào đó. Đó là danh tiếng về chất lượng và giá trị, là lịch sử thành lập hơn một thế kỷ, nó hoàn toàn xứng đáng với danh tiếng đó cho dù Leica không phải là không có lỗi. Panasonic, ngược lại, là bị coi là “phân khúc cấp thấp”, bất kể chất lượng thực sự của họ thế nào. Điều đó có nghĩa là nếu cùng một mức giá, mọi người sẽ mua Leica hơn là mua Panasonic. Còn bạn, nếu D-Lux 5 bằng giá với DMC-LX5, bạn sẽ mua sản phẩm nào? Tương tự khi so với M9-P. Cứ như có cái gì đó thần bí về việc phiên bản này không có logo tròn đỏ và có thêm màn hình sapphire, mặc dù Leica chẳng bổ sung mấy các tính năng liên quan đến việc chụp ảnh cả. Giờ hãy lưu ý rằng điểm “mức giá không ai mua” đối với các sản phẩm “danh tiếng hơn” cũng sẽ cao hơn, nhưng khi giá thành giảm, sự khác nhau giữa các phiên bản dần biến mất. Đến một mức nào đó kể cả sản phẩm danh tiếng hơn cũng sẽ không có người mua. Những người đã không muốn M9 cũng sẽ chẳng muốn M9-P một khi họ đã không cần và không thấy lợi ích gì như đã phân tích ở trên. Giống như kiểu người không thích hoa hồng do bị dị ứng với mùi hương của nó thì dù hoa đó có đổi tên thế nào, người ta vẫn cứ không thích, vậy thôi. Cuối cùng, hãy hãy xem cái gì sẽ xảy ra với “điểm ngọt”. Do đường “danh tiếng” của M9-P cao hơn, giá thành của M9-P cần phải được đặt cao hơn, và sản lượng theo đó sẽ ít hơn, dù rằng nhiều người muốn mua nó hơn nếu nó cùng mức giá với M9. Panasonic, ngược lại, phải bán ở mức giá thấp hơn do đường “danh tiếng” thấp hơn, nhưng bù lại sẽ bán được số lượng nhiều hơn. Rõ ràng ở đây đã xảy ra một nghịch lý. M9-P đắt hơn bởi vì nhiều người sẽ mua nó nếu nó cùng giá với M9 chứ không phải vì ít người dám mua nó. Thật hài hước khi trong trường hợp danh tiếng, nhu cầu càng cao thì sản lượng càng thấp. Vì thế công ty nào cũng cần có một nghiên cứu thị trường đầy đủ về tâm lý người tiêu dùng, từ đó đưa ra một chiến lược tiếp thị hoàn hảo để người tiêu dùng cảm thấy khao khát những sản phẩm danh tiếng của họ hơn, từ đó làm tăng thêm đường thu nhập. Tất nhiên đây luôn là vấn đề hóc búa đối với mọi công ty. Chẳng hạn như phiên bản SD-1 của Sigma, rõ ràng là một sản phẩm xuất sắc với chất lượng hình ảnh tuyệt hảo đối với một máy cảm biến APS-C. Vấn đề là người ta vẫn coi Sigma là một tên tuổi “bình dân”, rồi phần mềm trên SD-1 lại có phần tệ hại đã góp phần làm lu mờ thêm danh tiếng của Sigma. Nói cách khác, Sigma đã hy vọng chất lượng hình ảnh của SD-1 sẽ tự nói lên tất cả, để từ đó có thể biến SD-1 trở thành một sản phẩm danh tiếng. Không may cho họ là cuối cùng nó lại bị coi là một sản phẩm “bình dân”, tương tự như phiên bản tưởng tượng M9 của Panasonic vậy. Câu chuyện tương tự cũng xảy ra với máy ảnh rangefinder của Zeiss Ikon, vốn được cho là ngang ngửa với Leica M6, nhưng do được sản xuất bởi Cosina (Nhật) chứ không phải từ Zeiss (Đức) nên đồng nghĩa với việc giá thành phải rẻ hơn. Mặc dù giá của danh tiếng Zeiss chỉ kém một chút so với Leica, nhưng thực tế tên tuổi này không hề kém cạnh Leica trên rất nhiều phương diện. M9-M cũng trở thành sản phẩm của danh tiếng Giờ lại nói về phiên bản M9-M, phiên bản cảm biến đơn sắc của M9. Có thể nhiều người sẽ thắc mắc làm gì có người nào mua nó. Nhưng thực tế có những người thực sự cần nó bởi đặc thù công việc họ làm, hoặc có những người muốn nó chỉ bởi tính năng đơn sắc độc đáo không “đụng hàng”. Tương tự như ở các đường chi phí của M9 và M9-P, xuống đến một mức giá nào đó, cũng sẽ có người không muốn mua M9-M. Ngay cả ở mức giá rất thấp, thì cũng sẽ có người thà mua M9 còn hơn là M9-M bởi lẽ họ cho rằng cảm biến đơn sắc là một hạn chế chứ không phải thế mạnh của M9-M. Vì thế, xem hình dưới: So sánh M9-M và M9. Giả định rằng M9-M, với cùng một sản lượng, có giá thành sản xuất rẻ hơn so với M9. Thông thường nó sẽ khiến cho “điểm ngọt” của sản phẩm này rơi ở khoảng tỷ lệ giá thành thấp hơn/số lượng lớn hơn so với M9. Tuy nhiên, đường cong nhu cầu cao hơn của M9-M làm cho giá thành của sản phẩm này cần phải cao hơn thì mới đạt lợi nhuận tối đa. Nếu tỷ lệ nằm ở phần bên trái và phía trên đường này (trên điểm “A”), sẽ có ít người hơn thực sự muốn nó. Nếu ở phần bên phải và thấp hơn điểm “B”, hầu hết mọi người sẽ muốn có M9 thay vì M9-M, và vì thế nhà sản xuất sẽ phải từ bỏ M9-M để tăng sản lượng M9. Vì thế, ít khách hàng nhưng nếu là lượng khách hàng “fan cuồng” sẽ dẫn tới sản lượng có thể ít đi và giá thành cao lên, kể cả chi phí sản xuất có rẻ hơn. Năng lực sản xuất và mở rộng sản xuất Giờ bàn về việc xây dựng nhà máy và mở rộng sản xuất. Đôi khi dây chuyền sản xuất hiện tại không thể giúp nhà sản xuất đạt được đến sản lượng “điểm ngọt” bạn cần để có thể tối đa hóa lợi nhuận: Năng lực sản xuất. Nếu nhà sản xuất có thể sản xuất nhiều hơn, họ có thể bán nhiều sản phẩm hơn với giá thành thấp hơn. Vấn đề ở đây là: xây thêm nhà máy sẽ tốn thêm nhiều tiền. Vì thế sản xuất nhiều hơn, chi phí trên mỗi sản phẩm cũng sẽ tăng thêm. Hay nói cách khác: Tác động của việc mở rộng sản xuất. Mặc dù chi phí sản xuất trên mỗi sản phẩm có tăng thêm một chút, nhưng năng lực sản xuất lớn hơn cho phép nhà sản xuất hạ thấp giá thành nhiều hơn so với trước khi mở rộng. Thực tế là nếu nhà sản xuất không thể tăng lợi nhuận bằng việc thêm các nhà máy, họ sẽ phải có một lý do nào đó ngoài mục tiêu lợi nhuận. Vấn đề này có thể hơi phức tạp, do mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận của toàn bộ công ty chứ không phải trên một sản phẩm đơn lẻ, nhưng nếu thực hiện mô hình này, Leica có thể hạ được giá thành khi mà năng lực sản xuất của họ được mở rộng, kể cả đối với các sản phẩm “danh tiếng”. Nếu lợi nhuận là động lực, họ sẽ không để giá cao hơn mức giá đạt lợi nhuận tối đa, hay sản lượng thấp hơn mức sản lượng đạt lợi nhuận tối đa. Thổi giá? Liệu có việc ông chủ Dr. Kaufmann thổi giá để tạo nên danh tiếng cho sản phẩm hay không? Mặc dù có nhiều tranh cãi về vấn đề này, và nó cũng hợp lý bởi nhiều công ty khác cũng làm thế, nhưng có thể đây không phải trường hợp của Leica. Nếu tăng giá để tạo danh tiếng, thì rõ ràng Leica đã khởi động một chiến dịch tiếp thị quá xa xỉ. Hãy lưu ý rằng giá thành quá cao có thể đạt được lợi nhuận cao trên mỗi sản phẩm, nhưng tổng lợi nhuận lại sụt giảm. Hãy nghĩ đến việc liệu Leica có hy sinh lợi nhuận bằng việc thổi giá hay không. Tại sao phải thổi giá để mất cơ hội bán được nhiều sản phẩm hơn khi họ biết rằng sẽ việc này sẽ khiến nhiều người tức giận. Có vẻ như ông chủ Leica sẽ không hy sinh lợi nhuận đáng kể cho một chiến dịch mạo hiểm và kém hiệu quả như vậy trong khi có các giải pháp hiệu quả hơn. Đó là việc bán sản phẩm với mức lợi nhuận tối đa, và sử dụng lợi nhuận đó để phát triển các sản phẩm “mới” với một số tính năng có thể giúp tăng thêm danh tiếng cho thương hiệu. Leica có vẻ đang đi theo hướng này bằng việc ra mắt rất nhiều “phiên bản đặc biệt”. Lưu ý rằng đây là các phiên bản “mới” chứ không phải “cải tiến” hay “đột phá” của hãng, mà M9-P hay M9-M là những ví dụ cụ thể.
Theo kienthucnhiepanh.com
0 notes
vuanhiepanh · 8 years
Text
Bài viết mới vừa được đăng tại trang web Tạp chí nhiếp ảnh
Bài viết mới vừa được đăng tại trang web http://vuanhiepanh.vn/2015/12/lo-dien-may-anh-leica-dau-tien-chong-nuoc/
Lộ diện máy ảnh Leica đầu tiên chống nước
Bức ảnh bị lộ cho thấy một chiếc máy ảnh Leica có kiểu dáng lạ và kết cấu chắc chắn. Nhiều khả năng đó là chiếc Leica X-U siêu bền, chống nước.
Từ bức ảnh, rất dễ nhận thấy mẫu máy ảnh (có thể là) Leica X-U sở hữu yếu tố thiết kế khác thường: đèn flash built-in nằm ở mặt trước của ống kính. Vành giữ thấu kính ngoài cùng cũng được cố định rất chắc chắn với 6 con vít. Vì vậy mà nhiều khả năng Leica X-U sẽ là sản phẩm nhắm tới thị trường máy ảnh siêu bền và chống nước.
Các thông tin rò rỉ của chiếc máy ảnh này gồm:
Tên sản phẩm: Leica X-U.
Chống nước ở độ sâu 15m.
Chống sốc khi thả rơi ở độ cao 1,22m.
Ống kính 35mm F1,7 ASPH lấy nét thủ công.
Sản xuất ở Đức.
Ngoài ra, Leicarumors – nguồn tin tiết lộ bức ảnh cho biết, sản phẩm sẽ được ra mắt vào cuối năm 2015. Không có thông tin về giá bán.
Dòng sản phẩm máy ảnh siêu bền và chống nước nói chung còn khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam, tuy nhiên chúng phát triển và có sức tăng trưởng, cạnh tranh tốt ở nhiều thị trường trên thế giới. Những thương hiệu mạnh trong việc phát triển dòng sản phẩm này bao gồm: Olympus, Ricoh, Panasonic, Nikon…
Theo: Việt Đức / nghenhinvietnam.vn
0 notes