Tumgik
#urdd gobaith cymru
mistarurdd · 11 months
Text
/ooc WNES I CWRDD A'R EICON EI HUN!!!!
WNES I CWRDD A FE!!!!
I MET THE ICON HIMSELF!!!!
I MET HIM!!!
Tumblr media
30 notes · View notes
swanseastandard · 2 months
Link
0 notes
Urdd Gobaith Cymru x TG Lurgan – Blinding Lights yn Gymraeg/as Gaeilge
youtube
Go hálainn. Even if you don't speak Irish or Welsh, their voices are beautiful. 💕
53 notes · View notes
heavyarethecrowns · 4 years
Text
Did you know
During the war, plans were drawn up to quell Welsh nationalism by affiliating Queen Elizabeth II, then Princess, more closely with Wales. Proposals, such as appointing her Constable of Caernarfon Castle or a patron of Urdd Gobaith Cymru (the Welsh League of Youth), were abandoned for various reasons, which included a fear of associating Elizabeth with conscientious objectors in the Urdd, at a time when Britain was at war.
4 notes · View notes
newsonnews · 4 years
Text
S4C to Celebrate 50 Years of the Urdd Gobaith Cymru Movement
#S4C to Celebrate 50 Years of the Urdd Gobaith Cymru Movement
A special S4C programme will look back upon an extraordinary rugby match held to celebrate 50 years of the Urdd Gobaith Cymru movement on 26th May at 9pm.
(more…)
View On WordPress
0 notes
yesnayak · 4 years
Text
Urdd 'heb ystyried lles a gofal' eu staff
Urdd ‘heb ystyried lles a gofal’ eu staff
[ad_1]
Mewn llythyr damniol sydd wedi dod i sylw BBC Cymru, mae Urdd Gobaith Cymru yn cael ei gyhuddo o fethu ag ystyried lles a gofal staff yn ystod proses ymgynghori dros ddyfodol swyddi yn y mudiad.
Yn y llythyr sydd wedi cael ei weld gan BBC Cymru, ma’ undebau UCAC ac Unsain yn galw ar y mudiad i oedi’r broses o gyflwyno cynllun ail-strwythuro dadleuol.
Mewn llythyr at…
View On WordPress
0 notes
tinmsn · 6 years
Text
Elizabeth II – Wikipedia tiếng Việt là gì
Elizabeth II – Wikipedia tiếng Việt
Đối với các định nghĩa khác, xem Elizabeth. Elizabeth II (Elizabeth Alexandra Mary) hay Elizabeth Đệ Nhị, sinh vào ngày 21 tháng 4 năm 1926 là đương kim Nữ vương của 16 Vương quốc Thịnh vượng chung bao gồm: Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Canada, Úc, New Zealand, Jamaica, Barbados, Bahamas, Grenada, Papua New Guinea, Quần đảo Solomon, Tuvalu, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadies, Antigua và Barbuda, Belize và Saint Kitts và Nevis. Bà đứng đầu các triều đình riêng rẽ và ngang nhau, thực hiện các nhiệm vụ cho mỗi quốc gia mà bà là nữ nguyên thủ, cũng như đóng vai trò là Người đứng đầu Khối Thịnh vượng chung các Quốc gia, Lãnh đạo tối cao Giáo hội Anh, Công tước xứ Normandie, Lãnh chúa Đảo Mann. Về lý thuyết quyền lực của bà là rất lớn, tuy nhiên, trên thực tế theo quy ước, bà hiếm khi can dự vào các vấn đề chính trị. Elizabeth trở thành Nữ vương của Anh Quốc, Canada, Úc, New Zealand, Nam Phi, Pakistan, và Ceylon sau khi cha của bà, Quốc vương George VI, qua đời vào ngày 6 tháng 2 năm 1952. Thời gian trị vì suốt 66 năm của bà chứng kiến nhiều sự thay đổi, trong đó có sự giải thể của Đế quốc Anh (một tiến trình bắt đầu từ trước khi bà lên ngôi) và sự phát triển tiếp đó của Khối Thịnh vượng chung các Quốc gia (Khối Thịnh vượng chung Anh). Sau khi các thuộc địa khác của Anh giành được độc lập khỏi Vương quốc Anh, bà trở thành vua của một vài quốc gia mới độc lập. Bà cũng là người đã từng trị vì 32 quốc gia riêng biệt, nhưng nay một nửa trong số đó đã trở thành nước cộng hòa. Elizabeth được sinh hạ tại Luân Đôn và là trưởng nữ của Công tước và nữ Nữ Công tước xứ York, mà sau này là Quốc vương George VI và Vương hậu Elizabeth, và được giáo dục tại gia. Sau khi Vua Edward VIII thoái vị, thân phụ của bà lên ngôi vào năm 1936, khiến bà trở thành thế nữ. Bà bắt đầu đảm đương nhiều công việc vương thất gia trong suốt Thế chiến thứ Hai, phục vụ trong Lực lượng Hỗ trợ Nội địa. Năm 1947, bà kết hôn với Philip, Công tước xứ Edinburgh, cựu vương tử Hy Lạp và Đan Mạch. Hai người có bốn con (Charles, Thân vương xứ Wales; Anne, Công chúa Vương thất; Vương tử Andrew, Công tước xứ York; và Vương tử Edward, Bá tước xứ Wessex), 8 cháu và 6 chắt. Bà hiện là người nắm giữ vương quyền lâu nhất Vương quốc Anh (7001660000000000000♠66 năm, 7002133000000000000♠133 ngày), theo sau là Nữ vương Victoria (63 năm, 216 ngày) và xếp trên Quốc vương George III (trong 59 năm, 96 ngày).
Công chúa Elizabeth năm 1929
Công chúa Elizabeth là con đầu lòng của Vương tử Albert, Công tước xứ York (sau này trở thành Quốc vương George VI), và Vương hậu Elizabeth. Bà được sinh ra nhờ biện pháp mổ lấy thai tại căn nhà số 17 Đường Bruton, Mayfair, Luân Đôn[1], và được rửa tội vào ngày 29 tháng 5 năm 1926 trong nhà thờ riêng của Điện Buckingham dưới sự chủ trì của Tổng giám mục xứ York, Cosmo Lang. Cha mẹ đỡ đầu của bà là ông bà nội Quốc vương George V và Vương hậu Mary; cô của bà là Công chúa Mary và Quý bà Elphinstone; ông bác cố, Thân vương Arthur, Công tước xứ Connaught và Strathearn; và bà ngoại, Cecilia Bowes-Lyon, Nữ bá tước Strathmore và Kinghorne. Elizabeth được đặt theo tên của mẹ bà, tên đệm được đặt theo tên bà cố là Vương hậu Alexandra, và bà nội Vương hậu Mary[2] và được những người thân trong gia đình gọi bằng cái tên “Lilibet” do bà không thể phát âm chính xác tên “Elizabeth” của mình khi còn nhỏ[3]. Bà có quan hệ gần gũi với ông nội của mình (vua George V), và được cho là có công giúp ông hồi phục sau bệnh tật năm 1929[4][5]. Bà có một cô em gái duy nhất là Công chúa Margaret, sinh năm 1930. Hai cô công chúa được dạy tại nhà dưới sự giám sát của mẹ và cô giáo của gia đình, Marion Crawford, người thường được biết đến với tên “Crawford”[6][7]. Trong sự tức giận của vương thất, Crawford sau đó đã xuất bản một cuốn tiểu sử ghi lại thời thơ ấu của Elizabeth và Margaret có tựa đề The Little Princesses (Những cô công chúa nhỏ). Cuốn sách mô tả tình yêu của Elizabeth với ngựa và chó, tính ngăn nắp của bà, và rất có trách nhiệm[8]. Những người khác cũng đồng tình với nhận xét này. Winston Churchill đã mô tả Elizabeth khi bà được hai tuổi là “một nhân cách. Cô bé phảng phất uy quyền và chín chắn đáng ngạc nhiên trong một đứa trẻ.”[9] Chị họ của bà, Margaret Rhodes, mô tả bà là “một cô bé vui vẻ, nhưng có ý thức và có giáo dục”[10].
Là cháu gái nội của nhà vua, Elizabeth nhận được danh hiệu Công chúa Anh, với tôn xưng Her Royal Highness (Công Chúa Điện Hạ), tước hiệu đầy đủ là Her Royal Highness Elizabeth of York (Công chúa điện hạ Elizabeth xứ York). Khi sinh ra, bà là người thứ ba trong danh sách kế vị ngai vàng, sau bác của mình, Vương tử Edward, Thân vương xứ Wales, và cha bà. Mặc dù việc bà được sinh ra có được công chúng chú ý, không ai có lý do để tin rằng bà sẽ trở thành nữ vương, vì mọi người khi đó đều cho rằng Thân vương xứ Wales sẽ cưới vợ và sinh con[11]. Vào năm 1936, khi ông nội của bà, nhà vua, băng hà và người bác Edward của bà nối ngôi, bà trở thành người kế vị thứ hai sau cha mình. Vào cuối năm đó, Edward thoái vị và cha bà trở thành vua. Elizabeth từ đó trở thành người thừa kế ngai vàng, và do đó được gọi là Her Royal Highness Công chúa Elizabeth. Elizabeth học môn lịch sử lập hiến với Ngài Henry Marten, Phó hiệu trưởng Đại học Eton[12], và tôn giáo với Tổng giám mục xứ Canterbury[13]. Bà học các ngôn ngữ hiện đại, và hiện nay vẫn nói tiếng Pháp trôi chảy[14]. Một đoàn Hướng đạo nữ, Đoàn Cung điện Buckingham số 1, được thành lập đặc biệt để công chúa Elizabeth có thể giao tiếp với những cô gái cùng lứa tuổi. Bà đoạt được phù hiệu thông dịch viên, bơi lội, múa, cưỡi ngựa, đầu bếp, chăm sóc trẻ, và may vá, và sau này trở thành người đứng đầu tội tuần tra của Nhóm tuần tra Swallow Patrol. Sau đó bà được tuyển làm Hướng đạo sinh biển và vào năm 1946, trở thành Trưởng hướng đạo sinh của Hướng đạo sinh lớn Đế quốc Anh, một nhánh dành cho người trưởng thành của Hướng đạo sinh nữ[15]. Nữ vương đến nay vẫn tham gia Hướng đạo và làm người bảo trợ cho Liên đoàn Hướng đạo từ năm 1952[16]. Vào năm 1939, Chính phủ Canada muốn công chúa Elizabeth tháp tùng cha mẹ trong chuyến đi thăm Canada. Tuy nhiên, đức vua đã quyết định không thực hiện điều này, nói rằng con gái ông còn quá trẻ để tham dự vào chuyến đi thăm căng thẳng như vậy, cuối cùng kéo dài đến hơn 1 tháng[17]. Elizabeth có thể đã gặp người chồng tương lai của mình, Philip của Hy Lạp và Đan Mạch vào năm 1934 và 1937[18]. Sau một cuộc gặp gỡ khác tại Đại học Hải quân Vương thất ở Dartmouth tháng 7 năm 1939, Elizabeth, dù khi đó chỉ mới 13 tuổi, đã đem lòng yêu mến Philip, và họ bắt đầu thư từ cho nhau[19]. Chiến tranh thế giới thứ hai[sửa | sửa mã nguồn] Vào tháng 9 năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Công chúa Elizabeth và em gái, công chúa Margaret, ở tại Lâu đài Balmoral, Scotland, từ tháng 9 đến Giáng sinh năm 1939, rồi chuyển sang Nhà Sandringham, Norfolk. Vào tháng 5 năm 1940, họ chuyển tới Lâu đài Windsor và ở đó trong gần hết năm năm tiếp theo. Đã có người đề nghị di tản hai công chúa sang Canada, nơi họ cùng với cha mẹ mình sẽ sống tại Lâu đài Hatley ở British Columbia. Kế hoạch này chưa bao giờ thành hiện thực; để đáp lại lời đề nghị này, mẹ của Elizabeth đã nói một câu nói nổi tiếng: “Những đứa trẻ sẽ không đi đâu hết nếu không có tôi. Tôi sẽ không đi khỏi mà không có Đức Vua. Và Đức Vua sẽ không bao giờ rời khỏi đây”[20]. Hai công chúa vẫn tiếp tục ở lại Windsor, tại đó họ đã diễn kịch pantomime vào Giáng sinh, trước gia đình và bạn bè được mời tới, cùng với những đứa con trong nhân viên Nội trợ Vương thất. Cũng từ Windsor mà Elizabeth, vào năm 1930, đã có buổi phát thanh đầu tiên qua chương trình Children’s Hour của BBC, gửi đến những đứa trẻ đang di tản khỏi các thành phố. Bà đã nói:
Chúng tôi đang cố gắng làm tất cả những gì chúng tôi có thể để giúp đỡ những thủy thủ, quân nhân và phi công dũng cảm, và chúng cũng đang cố gắng chịu đựng một phần nguy hiểm và buồn bã của cuộc chiến. Chúng tôi, mỗi một người, biết rằng cuối cùng rồi mọi chuyện sẽ tốt đẹp.[17]
Trong những năm Elizabeth ở Windsor, chuyên gia lập hiến Edward Iwi đã lên các kế hoạch để cho một thành viên của vương thất xuất hiện ở Wales, nhằm dẹp yên ảnh hưởng của phong trào quốc gia đang lên Plaid Cymru[21]. Trong một báo cáo gửi đến Thư ký Nội vụ Vương thất Herbert Morrison, Iwi đề nghị chỉ định Elizabeth là Cảnh sát của Lâu đài Caernarfon (vị trí mà David Lloyd George đang nắm giữ) và là người bảo hộ của Urdd Gobaith Cymru, và đi đến Wales với danh nghĩa đó. Ý tưởng này được Thư ký Nội vụ bác bỏ, dựa trên cơ sở nó có thể gây ra bất hòa giữ bắc và nam Wales; và bởi cả Đức Vua, người từ chối để cô con gái của mình phải chịu áp lực bởi các chuyến đi công cán; và của chính phủ, vì hai thành viên lãnh đạo của Urdd Gobaith Cymru được phát hiện ra là những người từ chối nhập ngũ có chủ đích. Vào năm 1945, công chúa Elizabeth tháp tùng cha mẹ đến thăm nhân viên quân đội của Khối thịnh vượng chung, và bắt đầu thực hiện các công tác một mình, như xem cuộc diễu hành của các nữ phi công[17]. Bà gia nhập Đội quân Lãnh thổ Bổ trợ Phụ nữ, với số hiệu 230873 Đại úy thứ hai Elizabeth Windsor. Bà được huấn luyện để trở thành tài xế và thợ cơ khí, lái một chiếc xe tải quân sự, và tiến đến cấp bậc Tư lệnh cấp thấp[22]. Hiện nay bà là “nguyên thủ quốc gia còn sống duy nhất đã từng mặc quân phục trong Chiến tranh thế giới thứ hai”[23]. Đến cuối cuộc chiến ở châu Âu, vào ngày Chiến thắng trong Ngày châu Âu, công chúa Elizabeth và em gái bà đã hòa mình một cách ẩn danh vào đám đông ăn mừng trên đường phố Luân Đôn. Sau này bà đã nói trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi, “chúng tôi xin phép cha mẹ để được ra ngoài và tự mắt mình chứng kiến. Tôi nhớ là chúng tôi đã rất sợ bị nhận ra… Tôi nhớ nhiều hàng người không biết mặt nhau đã nắm tay và đi dọc xuống Whitehall, tất cả chúng tôi chỉ biết khóc trong ngập tràn hạnh phúc và nhẹ nhõm”[24]. Hai năm sau, Công chúa thực hiện chuyến đi ra nước ngoài chính thức đầu tiên, khi bà tháp tùng cha mẹ đến phía Nam châu Phi. Vào sinh nhật lần thứ 21, trong một buổi phát thanh đến Khối thịnh vượng chung Anh từ Nam Phi, bà bảo đảm: “Tôi tuyên bố trước tất cả mọi người rằng toàn bộ cuộc đời tôi, dù dài hay ngắn, sẽ dành để phục vụ mọi người và phục vụ cho Vương thất vĩ đại mà tất cả chúng ta đều thuộc về”[25]. Kết hôn[sửa | sửa mã nguồn] Elizabeth kết hôn với Philip vào ngày 20 tháng 11 năm 1947. Cặp đôi này là cháu gọi Vua Christian IX của Đan Mạch bằng bác họ và họ hàng ba đời với Nữ vương Victoria. Trước khi kết hôn, Philip đã từ bỏ tước hiệu vương thất Hy Lạp và Đan Mạch của ông, và sử dụng danh hiệu Trung úy Philip Mountbatten, lấy theo họ mẹ. Ngay trước lễ cưới, ông được phong tước Công tước xứ Edinburgh và được trao cho danh hiệu His Royal Highness. Lễ cưới diễn ra không phải là suôn sẻ: Philip theo Chính thống giáo Hy Lạp, không có địa vị tài chính, và có các chị em gái kết hôn với những quý tộc Đức có liên hệ với Đức quốc xã. Mẹ của Elizabeth, trong những cuốn tự truyện về sau, được nói rằng đã phản đối mối lương duyên này, thậm chí còn gọi Philip là gã người Đức (The Hun)[26]. Tuy nhiên, Khối thịnh vượng chung chưa hoàn toàn hồi phục sau chiến tranh; nên Công chúa đã phải để dành các phiếu được phân phối để mua vật liệu may váy cưới[27], do Norman Hartnell thiết kế[28]. Lễ cưới được xem là tia hy vọng đầu tiên của sự tái sinh sau chiến tranh. Elizabeth và Philip nhận được 2.500 món quà cưới từ khắp nơi trên thế giới. Tại lễ cưới, phù dâu của Elizabeth là em gái; em họ, Công chúa Alexandra xứ Kent; Lady Caroline Montagu-Douglas-Scott, chị em bạn dì với Công chúa; Công chúa Alice, Nữ công tước xứ Gloucester; chị em con chú họ, Lady Mary Cambridge; Lady Elizabeth Mary Lambart (nay là Longman), con gái của Frederick Lambart, Bá tước xứ Cavan; The Honourable Pamela Mountbatten (nay là Hicks), chị họ của Philip; và chị họ bên phía mẹ, The Honourable Margaret Elphinstone (nay là Rhodes) và The Honourable Diana Bowes-Lyon (nay là Somervell)[29]. Cậu bé nâng váy cho bà là em con chú của bà, Vương tử William xứ Gloucester và Vương tử Michael xứ Kent[29]. Ở nước Anh hậu chiến, không có bất kỳ họ hàng người Đức nào của Công tước xứ Edinburgh được phép tham dự lễ cưới, kể cả ba người chị gái còn sống của Philip. Cô của Elizabeth, Công chúa Mary, từ chối tham dự vì anh trai của bà, Công tước xứ Windsor (người thoái vị năm 1936), không được mời vì lý do bên nhà chồng; bà lấy lý do sức khỏe làm lý do chính thức không đến dự tiệc cưới[30]. Elizabeth sinh hạ con trai đầu lòng, Vương tử Charles, vào ngày 14 tháng 11 năm 1948, vài tuần sau khi vua cha trao giấy chứng nhận đặc quyền cho phép con cái bà được hưởng địa vị Vương thất, mà nếu không họ sẽ không được phong tước[31]. Mặc dù Vương thất có tên là Windsor, một sắc lệnh của Vua Anh ban hành năm 1960 nói rằng dòng dõi nam của Elizabeth II và Thân vương Philip nếu không phải là vương tử và công chúa của Vương quốc Anh thì sẽ mang họ Mountbatten-Windsor[32]. Tuy nhiên, trên thực tế, tất cả con cái của họ đều lấy họ Mountbatten-Windsor. Người con thứ hai, Công chúa Anne, sinh vào năm 1950. Sau lễ cưới, cặp vợ chồng thuê chỗ ở đầu tiên của mình, Windlesham Moor, cho đến ngày 4 tháng 7 năm 1949[29], khi họ chuyển sang sinh sống tại Clarence House. Tuy nhiên, trong nhiều khoảng thời gian khác nhau từ năm 1949 đến 1951, Công tước xứ Edinburgh đóng quân ở Malta (vào thời điểm đó là Đất bảo hộ của Anh) với vai trò sĩ quan Hải quân Vương thất. Ông và Elizabeth thỉnh thoảng sống vài tháng ở thôn Gwardamangia ở Malta, tại Làng Gwardamangia, ngôi nhà mướn lại từ Louis Mountbatten, Bá tước Mountbatten xứ Miến Điện. Trong những lần gặp nhau ở Malta, những người con của họ vẫn ở lại nước Anh[33].
Lên ngôi[sửa | sửa mã nguồn]
Nữ vương và chồng, Thân vương Phillip chụp hình tại cung điện Buckingham trong ngày lễ đăng quang năm 1953.
Sức khỏe của Vua George VI yếu đi trong năm 1951, và Elizabeth bắt đầu xuất hiện thường xuyên trong những sự kiện công cộng thay thế cho cha mình. Vào tháng 10 năm đó, bà có chuyến thăm đến Canada, và viếng thăm Tổng thống Hoa Kỳ, Harry S. Truman, tại Washington, D.C.; trong chuyến thăm đó, Công chúa đã mang theo mình bản thảo tuyên bố lên ngôi phòng khi Nhà Vua qua đời khi bà không có mặt ở Vương quốc Anh[17][34]. Vào đầu năm 1952, Elizabeth và Philip có chuyến thăm đến Úc và New Zealand đi qua Kenya. Tại Sagana Lodge, cách Nairobi 100 dặm về phía bắc, tin dữ về cái chết của vua cha đến tai Elizabeth vào ngày 6 tháng 2. Philip là người báo tin này cho Nữ vương mới[35]. Martin Charteris, khi đó Thư ký Trợ lý riêng của bà, đã hỏi bà muốn chọn tên gì để làm niên hiệu, và được bà trả lời: “Elizabeth, tất nhiên”[36]. Elizabeth tuyên bố trở thành nữ vương tại nhiều quốc gia nơi bà được thừa kế ngai vàng, và đoàn người của vương thất nhanh chóng quay lại Vương quốc Anh. Tân Nữ vương và Công tước Edinburgh chuyển sang sống tại Điện Buckingham. Trong chuẩn bị cho lễ đăng quang, em gái của bà là Công chúa Margaret thông báo với chị mình rằng cô muốn kết hôn với Peter Townsend, một thường dân đã ly dị lớn hơn Margaret 16 tuổi, và có hai đứa con riêng. Nữ vương yêu cầu họ chờ thêm một năm; mà theo lời của Martin Charteris, “Nữ vương rất đồng cảm với Công chúa, nhưng tôi cho rằng bà đã nghĩ – bà hy vọng – với thời gian, mối tình này rồi sẽ phôi phai”. Sau khi bị sự phản đối của các thủ tướng trong Khối thịnh vượng chung, và lời đe dọa từ chức của một bộ trưởng nước Anh nếu Margaret và Townsend kết hôn, Margaret đã quyết định từ bỏ ý định[37]. Dù bà nội của Nữ vương là Thái Vương Thái hậu Mary mất vào ngày 24 tháng 3 năm 1953, lễ đăng quang của Nữ vương vẫn được tiến hành tại Tu viện Westminster vào ngày 2 tháng 6 năm 1953, theo ước nguyện của Mary. Toàn bộ buổi lễ, ngoại trừ lễ xức dầu và ban thánh thể, đã được truyền hình khắp Khối thịnh vượng chung, và ước đoán có khoảng 20 triệu người xem ở Anh, và 12 triệu người khác theo dõi qua radio[38]. Nữ vương Elizabeth mặc áo dài do Norman Hartnell thiết kế, có đính những biểu tượng hoa của các quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung: hoa hồng Tudor của nước Anh, cây kế của Scotland, tỏi tây của Wales, cây lá chụm hoa của Ireland, cây keo của Úc, lá phong của Canada, dương xỉ của New Zealand, protea của Nam Phi, hai đóa hoa sen đại diện cho Ấn Độ và Ceylon, và cây lúa mì, cây bông, và cây đay của Pakistan[39]. Sự phát triển của Khối thịnh vượng chung[sửa | sửa mã nguồn]
Nữ vương Elizabeth, trong suốt cuộc đời mình, đã chứng kiến sự thay đổi không ngừng đế quốc Anh cũ sang Khối Thịnh vượng chung Anh mới, rồi đến Khối thịnh vượng chung các Quốc gia. Vào thời điểm Nữ vương Elizabeth lên ngôi năm 1952, vai trò nguyên thủ trên danh nghĩa của các quốc gia độc lập của bà đã được thiết lập. Trong thời kỳ 1953–1954, Nữ vương và phu quân đã thực hiện chuyến đi vòng quanh thế giới trong sáu tháng. Bà trở thành nữ vương Úc và New Zealand đang trị vì đầu tiên đến thăm quốc gia này. Trong chuyến thăm, rất nhiều người đến chứng kiến; ước tính có ba phần tư dân số Úc đến để chiêm ngưỡng Nữ vương[40]. Trong thời gian trị vì, Nữ vương Elizabeth đã thực hiện nhiều chuyến viếng thăm đến nước ngoài, cũng như nhiều chuyến thăm đến từng quốc gia thuộc Khối thịnh vượng, trong đó có việc tham dự tất cả những Cuộc họp những người đứng đầu Chính phủ Khối thịnh vượng chung Anh (CHOGM). Elizabeth II là nguyên thủ quốc gia đi thăm viếng nhiều nhất trong lịch sử[41][42]. Vào năm 1956, Thủ tướng Pháp Guy Mollet và Thủ tướng Anh Ngài Anthony Eden đã bàn về khả năng Pháp liên minh với Vương quốc Anh; một trong những ý tưởng đó là Nữ vương Elizabeth II sẽ trở thành nguyên thủ quốc gia của Pháp. Mollet “đã cho rằng không có khó khăn gì khi chấp nhận sự lãnh đạo của Vương thượng”[43]. Lời đề nghị này chưa bao giờ được chấp nhận, và vào năm sau đó, Pháp đã ký Hòa ước Roma[43]. Vào tháng 11 năm đó, Anh và Pháp tấn công Ai Cập trong một nỗ lực không thành cuối cùng nhằm chiếm giữ kênh đào Suez. Bá tước Mountbatten xứ Miến Điện đã tuyên bố rằng Nữ vương phản đối cuộc xâm lược, mặc dù Thủ tướng Eden phủ nhận điều đó. Hai tháng sau Eden từ chức[44]. Sự thiếu vắng một cơ chế nghi thức trong Đảng Bảo thủ nhằm chọn ra một vị lãnh đạo có nghĩa là, sau khi Eden từ chức, Nữ vương có toàn quyền quyết định người thành lập chính phủ. Eden khuyên Elizabeth tham vấn Lord Salisbury (Chủ tịch Hội đồng Mật viện). Lord Salisbury và Lord Kilmuir (Đại pháp quan) đã tham vấn Nội các, Winston Churchill và Chủ tịch Ủy ban 1922, kết quả là Nữ vương đã chỉ định ứng cử viên do họ đề xuất: Harold Macmillan. Sáu năm sau, đến phiên Macmillan từ chức và khuyên Nữ vương chỉ định Bá tước xứ Home làm Thủ tướng, bà cũng làm theo lời khuyên này. Trong cả hai năm 1957 và 1963, Nữ vương đã chịu sự chỉ trích vì đã chỉ định Thủ tướng theo lời khuyên của một nhóm nhỏ bộ trưởng, hoặc chỉ theo lời một người duy nhất. Vào năm 1965, Đảng Bảo thủ đã đưa vào cơ chế nghi thức để chọn người đứng đầu, vì vậy bà không còn phải làm nhiệm vụ này nữa[44]. Cuộc khủng hoảng Suez và sự lựa chọn người kế nhiệm Eden đã dẫn đến sự chỉ trích thực sự đầu tiên vào cá nhân Nữ vương vào năm 1957. Trong một tạp chí do [45]Lord Altrincham sở hữu và biên tập, ông cáo buộc bà là “xa cách”[46]. Altrincham đã bị những nhân vật nổi tiếng lên án và bị một số người hành hung vì tức giận với lời phát biểu của ông[47]. Bà có chuyến viếng thăm đến Hoa Kỳ vào năm đó, và có bài phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc[48]. Cũng trong dịp đó bà đã khai mạc Nghị viện Canada thứ 23, trở thành vị quân chủ Canada đầu tiên khai mạc một phiên nghị viện. Hai năm sau, bà lại đến thăm Canada và Hoa Kỳ. Vào năm 1962, bà đến Síp, Ấn Độ, Pakistan, Nepal và Iran[49]. Trong chuyến thăm Ghana, bà đã từ chối giữ khoảng cách với Tổng thống Kwame Nkrumah, dù ông là mục tiêu của những kẻ ám sát. Harold Macmillan khi đó đã viết: “Nữ vương hoàn toàn quyết đoán trong chuyện đó. Bà cảm thấy thiếu kiên nhẫn với thái độ xem bà giống như một ngôi sao điện ảnh… Bà đã thực sự là ‘trái tim và dạ dày của một người đàn ông’… Bà yêu công việc của mình và xứng đáng là một Nữ vương”[50].
Hai lần Nữ vương Elizabeth mang thai Vương tử Andrew và Edward, năm 1959 và 1963, là những lần duy nhất Elizabeth không xuất hiện để khai mạc Nghị viện khi bà trị vì. Bà đã ủy nhiệm quyền đó cho Đại pháp quan. Elizabeth đã khai trương đường dây điện thoại xuyên Đại Tây Dương đầu tiên của Canada (một phần trong số đó đã được điều chỉnh để kết nổi tất cả các quốc gia Khối thịnh vượng chung với nhau) năm 1961, với việc gọi cho Thủ tướng Canada, John Diefenbaker, từ Điện Buckingham và nói “Ông có đó không, ông Thủ tướng?”[51]. Vào năm 1965, Thủ tướng Rhodesia Ian Smith đơn phương tuyên bố độc lập khỏi Anh quốc. Mặc dù Nữ vương đã cách chức Smith trong một tuyên bố chính thức và cộng đồng quốc tế áp lệnh trừng phạt cho Rhodesia, chế độ của Smith vẫn tồn tại thêm 11 năm nữa[52]. Vào năm 1969, Elizabeth đã gửi một trong 73 Thông điệp Chúc mừng Apollo 11 đến NASA do sự kiện lịch sử lần đầu tiên đổ bộ lên Mặt Trăng; thông điệp này được khắc lên một đĩa silicon nhỏ hiện vẫn nằm trên Mặt Trăng. Sau đó bà đã gặp phi hành đoàn trong chuyến đi thăm các nước trên thế giới của họ[14]. Vào năm 1976, bà trở thành quân vương đầu tiên gửi thư điện tử[53]. Vào tháng 2 năm 1974, một kết quả tổng tuyển cử bất phân thắng bại của Anh dẫn tới việc, về lý thuyết, Thủ tướng sắp mãn nhiệm, Edward Heath, người thuộc đảng thắng đa số phiếu phổ thông, có thể tiếp tục tại vị nếu ông hình thành một chính phủ liên minh với Đảng Tự do. Thay vì lập tức từ chức Thủ tướng, Heath đã xem xét lựa chọn này, và chỉ từ chức sau khi cuộc thảo luận để hình thành chính phủ liên hiệp thất bại, sau đó Nữ vương đã yêu cầu Thủ lĩnh Phe đối lập, Harold Wilson của Đảng Lao động, thành lập chính phủ[54]. Một năm sau, tại cao trào của cuộc khủng hoảng lập hiến Úc 1975, Thủ tướng Gough Whitlam bị Toàn quyền Ngài John Kerr bãi nhiệm khi đề xuất ngân sách của Whitlam bị Thượng viện do phe đối lập điều khiển bác bỏ[55]. Phát ngôn viên Hạ viện Úc, Gordon Scholes, đã thay mặt hạ viện thỉnh cầu Nữ vương đảo ngược quyết định của Kerr, trên cơ sở Đảng Lao động của Whitlam vẫn nhận được sự tín nhiệm của quốc hội. Elizabeth từ chối, cho rằng việc can thiệp vào chính trường là không thích hợp đối với bà mà theo Hiến pháp Úc nó là quyền hạn của Toàn quyền[56]. Cuộc khủng hoảng này đã kích thích chủ nghĩa cộng hòa ở Úc. Lễ kỷ niệm 25 năm[sửa | sửa mã nguồn] Năm 1977, Nữ vương Elizabeth đánh dấu Lễ kỷ niệm 25 năm trị vì[57]. Nhiều sự kiện được tổ chức ở các quốc gia khác nhau trong chuyến thăm đến các nước thuộc Khối thịnh vượng chung của Nữ vương, trong đó có lễ tạ ơn tại Nhà thờ chính tòa Thánh Phao-lô trong đó có sự tham dự của các chức sắc quý tộc và các nguyên thủ quốc gia khác. Những bữa tiệc đã được tổ chức trên khắp các vương quốc Khối thịnh vượng chung, đỉnh điểm là một vài Ngày kỷ niệm (Jubilee Days) ở Vương quốc Anh, vào tháng 6. Tại nước Anh, những con tem kỷ niệm đã được phát hành. Đường Lễ kỷ niệm 25 năm (Jubilee Line) tại Tàu điện ngầm Luân Đôn (dù đến năm 1979 mới mở cửa) được đặt theo tên của lễ kỷ niệm này, cũng như một vài địa điểm và không gian công cộng khác, như Vườn Jubilee ở Bờ Nam Luân Đôn. Tại Canada, Huy hiệu Kỷ niệm 25 năm trị vì Nữ vương Elizabeth II đã được phát hành. Năm 1978, bà đón nhận chuyến thăm của vị lãnh tụ cộng sản Rumani, Nicolae Ceauşescu[58], và năm sau là hai xảy ra hai sự kiện lớn: một là việc phát hiện ra Anthony Blunt, Thanh tra Bộ tranh của Nữ vương, là một điệp viên cộng sản; vụ còn lại vụ ám sát người họ hàng bên chồng Bá tước Mountbatten xứ Miến Điện do Quân đội Cộng hòa Ireland Lâm thời thực hiện[59]. Theo Paul Martin, Sr., vào cuối thập niên 1970 Nữ vương rất lo lắng rằng vương thất “không còn mấy ý nghĩa” đối với Thủ tướng Canada Pierre Trudeau[60]. Tony Benn nói rằng Nữ vương nhận thấy Trudeau “khá thất vọng”[60][61]. Điều này có thể là do những trò khôi hài của ông, như trượt xuống lan can tại Điện Buckingham hay múa xoay tròn sau lưng bà vào năm 1977[60], cũng như tước bỏ nhiều biểu tượng Vương thất Canada trong nhiệm kỳ của ông[60]. Martin – cùng với John Roberts và Mark MacGuigan – được cử tới Anh năm 1980 để bàn về việc thay đổi Hiến pháp Canada. Nữ vương rất quan tâm đến cuộc tranh luận về hiến pháp, đặc biệt sau sự thất bại của Bill C-60, có thể ảnh hưởng đến vai trò quân chủ của bà. Tất cả các bên đều nhận thấy Nữ vương “được báo cáo cặn kẽ về nội dung và chính trị của trường hợp hiến pháp Canada hơn bất kỳ chính trị gia hoặc nhân viên chính phủ nào”. Kết quả của việc thay đổi hiến pháp là vai trò của nghị viện Anh trong hiến pháp Canada bị xóa bỏ, nhưng ngôi vị uânnchủ g thì vẫn được duy trì. Trudeau nói trong hồi ký của ông: “Nữ vương đã ủng hộ nỗ lực cải cách Hiến pháp của tôi. Tôi luôn ấn tượng không chỉ bởi phong thái của bà trước công chúng, mà còn bởi trí tuệ mà bà thể hiện trong những cuộc đối thoại riêng tư”[62]. Thập niên 1980[sửa | sửa mã nguồn] Sự dũng cảm của Nữ vương Elizabeth, cùng tài nghệ cưỡi ngựa của bà đã được thể hiện trong buổi lễ Trooping the Colour hàng năm năm 1981[63]. Đã có sáu phát súng nhắm vào bà từ khoảng cách gần khi bà đang cưỡi ngựa dọc theo The Mall. Bà vẫn điều khiển con ngựa Burmese của mình đi tiếp. Các nhà báo đã vô cùng ngạc nhiên trước vụ tấn công vào mạng sống Nữ vương, cho dù sau đó người ta điều tra được đó chỉ là những phát súng chỉ thiên. Hạ viện Canada ấn tượng với màn trình diễn của Nữ vương đến nỗi họ đã thông qua văn bản ca ngợi sự điềm tĩnh của bà[50]. Vào năm sau đó, Nữ vương lại gặp một tình huống nguy hiểm khi bà thức dậy trong phòng ngủ ở Điện Buckingham và thấy một người lạ, Michael Fagan, đang ở trong phòng của bà. Vẫn bình tĩnh, trong khoảng mười phút, và qua hai cú điện thoại đến tổng đài cảnh sát của cung điện, Elizabeth đã nói chuyện với Fagan khi tên này đang ngồi ở chân giường cho đến khi trợ lý của bà ập đến[64]. Từ tháng 4 đến tháng 9 năm đó, Nữ vương rất lo lắng[65] nhưng tự hào[66] về con trai của bà, Vương tử Andrew, người đang phục vụ trong quân đội Anh trong Chiến tranh Falklands. Mặc dù bà đã từng đón Tổng thống Ronald Reagan tại Lâu đài Windsor năm 1982, và đến thăm trang trại của ông ở California năm 1983, bà vẫn biểu lộ sự tức giận khi chính quyền ông này ra lệnh xâm lược Grenada, một trong những vương quốc của bà ở Caribe[67]. Trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Anh Quốc Margaret Thatcher vào thập niên 1980, có lời đồn rằng Nữ vương lo ngại rằng chính sách kinh tế của Thatcher sẽ thúc đẩy sự phân hóa xã hội, và được báo động về tình trạng thất nghiệp cao, một loạt vụ bạo động, tình trạng bạo lực trong một cuộc biểu tình của thợ mỏ[68], và sự từ chối thi hành sắc lệnh chống lại chế độ apartheid ở Nam Phi của Thatcher[69]. Thatcher đã nói với Brian Walden, “Nữ vương là là người phụ nữ có thể sẽ bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ Xã hội”. Những báo cáo về mối quan hệ căng thẳng giữa Nữ vương Elizabeth và Thatcher trong suốt thời kỳ này đánh giá khác nhau về sự khác biệt giữa hai người và mức độ căng thẳng do khác biệt về chính sách, hoặc sự xung đột tính cách[70]. Thái độ của Nữ vương đối với Thatcher thậm chí còn được mô tả là “ghét cay ghét đắng”[71]. Mặc cho những suy đoán như vậy, Thatcher sau này vẫn bày tỏ sự ngưỡng mộ Nữ vương, và thể hiện niềm tin rằng cái ý tưởng về sự xung đột giữa hai người chỉ là sự bịa đặt vì họ đều là phụ nữ với nhau. Trong bộ phim phóng sự của BBC Queen & Country (Nữ vương và Đất nước), Thatcher đã mô tả Nữ vương là “tuyệt diệu” và là một “quý bà hoàn hảo” “luôn biết mình phải nói cái gì”, cụ thể là ám chỉ cuộc họp cuối cùng với vai trò thủ tướng với Elizabeth[72]. Trái ngược với những báo cáo về sự thù địch giữa hai người, sau khi Thatcher không tham gia chính trị nữa, Nữ vương Elizabeth đã phong cho bà hai món quà cá nhân từ Nữ vương: Order of Merit và Order of the Garter[73]. Cả Nữ vương và Thân vương Philip đều tham dự tiệc sinh nhật lần thứ 80 của Thatcher. Sau này, Nữ vương và Thân vương cũng tham dự tang lễ của bà Thatcher (2013) Vào năm 1991, bà trở thành quân chủ Anh đầu tiên đọc diễn văn trước buổi họp chung của Quốc hội Hoa Kỳ. Năm sau, bà cố gắng cứu vớt sự hôn nhân thất bại của con trưởng của bà, thái tử Charles, bằng cách khuyên nhủ ông và vợ, Diana, Công nương xứ Wales, hàn gắn sự khác biệt giữa họ[74]. Bà không thành công, và cặp vợ chồng đã chính thức ly thân. Năm tồi tệ[sửa | sửa mã nguồn] Nữ vương đã gọi năm 1992 là một “năm tồi tệ” (nguyên văn: annus horribilis) của bà trong bài phát biểu ngày 24 tháng 11 năm 1992. Đây là năm chứng kiến con gái của bà ly dị, con trai cả ly thân và con trai thứ hai gặp trục trặc trong hôn nhân. Lâu đài Windsor bị thiệt hại nặng sau vụ cháy, và chế độ quân chủ ngày càng bị chỉ trích và bị công chúng dòm ngó[75]. Trong bài phát biểu cá nhân khá bất thường, bà nói rằng bất kỳ một thể chế nào cũng phải đón nhận sự chỉ trích nhưng lại đặt câu hỏi, “Không thể nào làm [chỉ trích] mà không có tí hài hước, lịch sự và thấu hiểu được hay sao?”[76] Vào những năm tiếp theo, tình trạng hôn nhân của Thái tử Charles và Công nương Diana càng bị tiết lộ ra công chúng nhiều hơn[77]. Cuối cùng, sau khi tham vấn Thủ tướng Anh John Major, Tổng giám mục xứ Canterbury George Carey, thư ký riêng Robert Fellowes của Nữ vương, và phu quân, bà đã viết thư gửi cho cả Charles và Diana nói rằng giờ đây ly dị là điều cần thiết[78]. Một năm sau khi ly dị, Diana chết trong một vụ tai nạn xe hơi ở Paris vào ngày 31 tháng 8 năm 1997. Vào thời điểm đó, Nữ vương đang đi nghỉ ở Balmoral với con trai và các cháu. Với niềm thương tiếc, hai con trai của Diana muốn tham dự lễ nhà thờ, vì vậy bà và phu quân đã đưa hai Vương tử nhỏ đi ngay vào sáng hôm đó[79]. Trong năm ngày, Nữ vương và Công tước đã bảo vệ những người cháu của họ khỏi sự tò mò của đám phóng viên bằng cách lưu chúng lại Balmoral, nơi có chốn riêng tư để buồn nhớ[80]. Sự ẩn dật của Vương thất khiến công chúng mất tinh thần[81]. Chịu áp lực từ gia đình, bạn bè, tân Thủ tướng Anh Tony Blair, và phản ứng từ công chúng, Nữ vương đã đồng ý có buổi phát sóng trực tiếp cho thế giới vào ngày 5 tháng 11[82]. Trong buổi truyền hình đó, bà bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Diana, và cảm xúc “của một người bà” đối với hai Vương tử nhỏ William và Harry[83]. Thái độ của công chúng đã thay đổi từ tiêu cực sang kính trọng sau buổi phát hình đó[83]. Ban đầu người ta cho rằng Nữ vương Elizabeth có mối quan hệ rất tốt với Tony Blair, trong năm năm đầu tiên ông làm Thủ tướng từ 1997 đến 2002. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy mối quan hệ của họ xấu dần qua năm tháng[84], cho đến tháng 5 năm 2007, Nữ vương được tiết lộ đã “tức giận và thất vọng” trước những hành động của Blair, đặc biệt là những gì bà được chứng kiến là sự thờ ơ đối với các vấn đề nông nghiệp, cũng như cách hành xử quá bình dân (ông yêu cầu Nữ vương gọi ông là “Tony”) và khinh thường di sản truyền thống của nước Anh. Người ta đồn rằng Nữ vương Elizabeth đã bày tỏ sự quan tâm đến việc Quân lực Anh đã bị lạm dụng quá đáng, đặc biệt tại Iraq và Afghanistan, cũng như “ngạc nhiên” trước việc Blair thay đổi buổi họp hàng tuần với bà từ chiều thứ 3 sang chiều thứ 4. Bà được cho là đã liên tục nêu lên những vấn đề này với Blair tại cuộc họp của họ, mặc dù bà chưa bao giờ tiết lộ quan điểm của bà về Chiến tranh Iraq[85]. Mối quan hệ giữa Nữ vương và Công tước của Edinburgh với Blair và vợ ông, Cherie, được báo cáo là khá xa cách, khi hai cặp này rất ít khi cùng xuất hiện trước công chúng. Tuy nhiên, Elizabeth rõ ràng ngưỡng mộ những nỗ lực của Blair trong việc giành được hòa bình tại Bắc Ireland[86]. Lễ kỷ niệm 50 năm trị vì đến nay[sửa | sửa mã nguồn] Vào năm 2002, Nữ vương Elizabeth đánh dấu lễ kỷ niệm 50 năm từ khi lên ngôi Nữ vương[87]. Một lần nữa bà lại tổ chức nhiều cuộc viếng thăm đến các vương quốc của mình, bắt đầu từ Jamaica vào tháng 2, tại đó bà đã gọi bữa tiệc chia tay là “rất đáng nhớ” khi điện bỗng dưng bị cắt khiến cho King’s House, nơi ở chính thức của Toàn quyền, rơi vào bóng tối[88]. Mặc dù những buổi lễ ăn mừng của người dân ở Anh có vẻ im ắng hơn so với 25 năm trước, một phần do cái chết của Vương Thái hậu (mẹ của bà) và em gái bà, Công chúa Margaret, vào đầu năm đó, người ta vẫn tổ chức những buổi tiệc đường phố và các sự kiện kỷ niệm ở nhiều địa phương. Cũng như năm 1977, nhiều tượng đài được đặt tên và nhiều món quà được ban phát vì dịp này, trong đó phải kể đến Trung tâm Tân Truyền thông Báo chí Golden Jubilee ở Đại học Sheridan, và Công viên mang tên Nữ vương Elizabeth II ở tỉnh Wildlands, đều ở Canada. Năm 2005, bà là quân chủ Canada đầu tiên phát biểu tại Hội đồng Lập pháp Alberta; và vào năm 2007, là quân chủ Anh đầu tiên phát biểu tại Đại hội đồng Virginia. Nữ vương và Công tước xứ Edinburgh đã tổ chức ngày kỷ niệm 60 năm ngày cưới vào năm 2007, với buổi lễ đặc biệt tại Tu viện Westminster và bữa tối riêng tư do thái tử Charles tổ chức tại Clarence House vào ngày 19 tháng 11, và vào hôm sau (đúng ngày kỷ niệm) một bữa dạ tiệc với các thành viên của Vương thất, các Thủ tướng các thời kỳ, và những phù dâu và người nâng váy còn sống trong tiệc cưới khi xưa. Vào ngày 21 tháng 11, Elizabeth và Philip đi du lịch Malta, nơi các thủy thủ của chiếc tàu Hải quân Vương thất đang đậu gần đó đã đứng trên boong xếp thành con số 60. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2008, tại Nhà thờ chính tòa Thánh Patrick, Armagh của Giáo hội Ireland, Nữ vương đã lần đầu tiên tham dự Lễ Maudy được tổ chức bên ngoài Anh và Wales[89]. Sức khỏe và sự giảm bớt trách nhiệm[sửa | sửa mã nguồn] Thời gian trị vì của Nữ vương lâu hơn cả bốn đời vua trước cộng lại (Edward VII, George V, Edward VIII, và George VI). Bà là quân chủ trị vương quốc Anh lâu nhất nước Anh, lâu thứ nhất trong các quân vương hiện đang trị vì một quốc gia độc lập, và vị vua trị vì nước Anh có số tuổi cao nhất từ trước đến nay. Nữ vương Elizabeth đã trở thành nguyên thủ quốc gia Anh sống lâu nhất (vượt qua Richard Cromwell) vào ngày 29 tháng 1 năm 2012, quân chủ trị vì lâu nhất trong lịch sử Anh (vượt qua Nữ vương Victoria) vào ngày 10 tháng 9 năm 2015 ở tuổi 89, và quân chủ trị vì lâu nhất trong lịch sử châu Âu (vượt qua Vua Louis XIV của Pháp) vào ngày 26 tháng 5 năm 2014, khi đó bà được 88 tuổi. Nữ vương Elizabeth có sức khỏe tốt trong suốt thời kỳ trị vì của mình. Dù bà vẫn được mô tả là có sức khỏe tuyệt vời và rất hiếm khi có bệnh, bà đã trải qua một số vấn đề sức khỏe trong năm 2005–06. Tháng 6 năm 2005, Nữ vương đã hủy vài cuộc hẹn gặp sau khi Cung điện nói rằng bà bị cảm nặng. Vào tháng 10 năm 2006, bà bị vỡ mạch máu ở bên mắt phải, khiến nó có màu đỏ sẫm[90]. Tuy Điện Buckingham không đưa ra bình luận nào, các chuyên gia y tế cho rằng Nữ vương sẽ không phải chịu đau đớn gì cả, và sẽ trở lại bình thường trong vòng một đến hai tuần, không có hư tổn lâu dài. Tuy nhiên, họ cũng nhắc rằng việc vỡ mạch máu, dù là bình thường ở những người lớn tuổi, có thể là dấu hiệu của bệnh cao huyết áp. Vào cuối tháng đó, Nữ vương phải hủy cuộc hẹn khai mạc Sân vận động Emirates mới, vì cơ lưng bị căng khiến bà khó chịu từ cuối kỳ nghỉ của bà ở Lâu đài Balmoral hồi mùa hè[91]. Lưng của Elizabeth khiến mọi người lo lắng nhiều hơn; vào tháng 11 năm 2006, người ta lo rằng Nữ vương có thể sẽ không khỏe để mở màn Nghị viện Anh, và mặc dù bà đã tham dự, người ta đã lập kế hoạch cho trường hợp bà vắng mặt. Vào tháng 12, có tin đồn rằng sức khỏe của Nữ vương Elizabeth đã giảm sút khi người ta thấy bà với miếng băng dính trên tay phải, nơi người ta cho là bà có thể đã được tiêm tĩnh mạch, và đặc biệt là với vấn đề về lưng của bà, do bị loãng xương[92]. Tuy nhiên, sau đó người ta biết được rằng miếng băng dính đó là do một trong hai con corgi cắn vào tay bà khi bà tách chúng ra lúc chúng đang cắn nhau[93]. Vào thời điểm sinh nhật lần thứ 80, Nữ vương đã nói rõ rằng bà không có ý định thoái vị[94]. Vài năm vừa qua, cả Thái tử Charles, Công chúa Anne và Vương tử William (Công tước xứ Cambridge) đều đã từng thay mặt Nữ vương trong một số sự kiện như phong tước, và đóng vai trò Cố vấn Quốc gia (đại diện cho triều đình khi Nữ vương đi vắng). Điều này dẫn đến suy đoán trong giới truyền thông Anh rằng Thái tử Charles sẽ bắt đầu đảm nhiệm ngày càng nhiều trọng trách của một quân vương trong khi Elizabeth nghỉ ngơi dần[95]. Tuy nhiên, Điện Buckingham thông báo rằng Nữ vương Elizabeth sẽ tiếp tục phận sự của bà, cả với công chúng lẫn riêng tư, trong tương lai[96]. Đại lễ 60 năm trị vì[sửa | sửa mã nguồn]
Trang web Google đổi giao diện nhân dịp 60 năm trị vì của Nữ vương Elizabeth II.
Đại lễ Kim Cương của Nữ vương Elizabeth đệ Nhị (Elizabeth II) là một buổi lễ kỷ niệm đa quốc gia trong suốt năm 2012 để đánh dấu mốc 60 năm nữ vương trị vì ngai vàng bảy quốc gia sau cái chết của cha mình, vua Geogre VI vào ngày 6 tháng 2 năm 1952. Nữ vương Elizabeth II hiện là quân chủ của 16 quốc gia có chủ quyền (tăng lên từ số 7 quốc gia lúc đầu và được gọi chung là “nhóm Vương quốc Khối Thịnh vượng chung Anh”), 12 nước trong số này trước kia là thuộc địa của Anh hay là nước tự trị phụ thuộc Anh, lúc Nữ vương bắt đầu lên ngôi. Trước đó, trong Vương thất Anh chỉ mới có Nữ vương Victoria là từng tổ chức đại lễ Kim cương năm 1897 trong lịch sử Anh [97]Canada,[98][99][100]Úc, New Zealand và vài vương quốc khác trong Khối Thịnh vượng chung Anh. Tiếp nối truyền thống của kỳ đại lễ kim cương trước thì Huy chương Kỷ niệm Lễ kim cương của Nữ vương Anh Elizabeth II sẽ được trao tặng trong một số quốc gia khác nhau và sẽ tổ chức các ngày lễ, sự kiện lớn trong toàn Khối thịnh vượng chung. Các kế hoạch đã được bàn thảo tại Hội nghị Nguyên thủ Khối thịnh vượng chung vào năm 2011. Hình ảnh và nhân cách trong công chúng[sửa | sửa mã nguồn]
Nữ vương Elizabeth II được người dân Anh xem là biểu tượng của đất nước họ.
Nữ vương Elizabeth được minh họa trong một bộ phim bán tiểu sử năm 2006 mang tên The Queen, cũng như nhiều tác phẩm khác nhưng bà hầu như chưa bao giờ thực hiện phỏng vấn với báo chí và rất ít người biết được cảm xúc của bà. Bà nhận thức rất rõ phận sự tôn giáo và công dân của mình, và rất nghiêm túc với lời thề khi lên ngôi[101][102]. Bà có tiếng là người có lối thời trang bảo thủ, gần như lúc nào cũng áo khoác màu trơn và chiếc mũ trang trí, khiến bà dễ nhận thấy trong đám đông[103]. Thú vui tiêu khiển chính của bà là đua ngựa, nhiếp ảnh, và chó, đặc biệt là những con Pembroke Welsh Corgi của bà[14]. Vào những năm 1950, khi còn là một phụ nữ trẻ vừa lên ngôi, Elizabeth được minh họa là một “Nữ vương cổ tích” quyến rũ[104]. Sau thế chiến thứ hai, đó là thời điểm của sự hy vọng, thời kỳ phát triển và thành tựu được gọi là “thời kỳ Elizabeth mới”[105]. Lời cáo buộc như của Lord Altrincham vào năm 1957 rằng bà là một “cô nữ sinh hợm hĩnh” là một sự chỉ trích cực kỳ hiếm hoi[106]. Vào cuối thập niên 1960, những nỗ lực nhằm mô tả một hình ảnh của một chủ nghĩa quân chủ hiện đại hơn đã được thực hiện trong phim phóng sự truyền hình Royal Family (Gia đình Vương thất), và bằng cách truyền đi Lễ phong tước thân vương xứ Wales của Thái tử Charles[107]. Vào ngày kỷ niệm 25 năm trị vì của bà, người dân và những lễ hội thực sự rất say mê[108], nhưng vào thập niên 1980 sự chỉ trích của công chúng nhằm vào Vương thất tăng lên, vì đời sống cá nhân và công việc của con cái Elizabeth bị truyền thông soi mói khá kỹ[109]. Uy tín của Nữ vương Elizabeth thấp nhất trong thập niên 1990; dưới sức ép của công chúng bà bắt đầu lần đầu tiên trả thuế thu nhập, và Điện Buckingham phải mở cửa cho công chúng[80]. Sự bất mãn với chế độ quân chủ lên đến đỉnh điểm với Cái chết của Diana, công nương xứ Wales, và chỉ mất dần khi Nữ vương phát biểu truyền hình đến toàn thế giới[80]. Vào tháng 11 năm 1999, cuộc trưng cầu dân ý ở Úc về tương lai của chế độ quân chủ cho kết quả tiếp tục duy trì nền quân chủ[110]. Khi năm Kỷ niệm 50 năm trị vì của bà bắt đầu, giới truyền thông dự đoán xem nó sẽ là một năm thành công hay thất bại[111]. Năm đó bắt đầu một cách u ám bằng cái chết của em gái và mẹ của Elizabeth, nhưng đã có một triệu người tham dự mỗi ngày trong ba ngày lễ kỷ niệm chính ở Luân Đôn[112]. Sự nhiệt tình của công chúng đối với Elizabeth lớn hơn nhiều so với những dự đoán của báo giới[113]. Những cuộc thu thập ý kiến năm 2006 cho thấy người ta ủng hộ Elizabeth mạnh mẽ; đa số người trả lời muốn bà tiếp tục trị vì cho đến khi chết, và nhiều người cảm thấy bà đã trở thành một người thân thuộc[114][115]. Tài chính[sửa | sửa mã nguồn]
Tài sản cá nhân của Nữ vương Elizabeth đã là chủ đề xoi mói trong nhiều năm. Tạp chí Forbes ước đoán tài sản sau thuế của bà là khoảng 600 triệu đô la Mỹ (330 triệu bảng Anh)[116], nhưng thông cáo chính thức của Điện Buckingham đã gọi việc ước đoán 100 triệu bảng Anh cũng đã là “cường điệu thô thiển”[117]. Mặc dù Bộ sưu tập Vương thất trị giá xấp xỉ 10 tỷ bảng Anh, nó là tài sản phó thác cho con cháu và nước Anh, như Điện Buckingham, Lâu đài Windsor, và các cung điện có người ở trong Vương quốc Anh[118][119]. Cũng như nhiều vị vua trước đó, Elizabeth được cho là không thích ở Điện Buckingham, mà xem Lâu đài Windsor mới là mái nhà của mình[94]. Sandringham House và Lâu đài Balmoral là tài sản sở hữu của cá nhân Nữ vương, được thừa kế từ cha khi ông mất, cùng với Đất công tước Lancaster, bản thân nó trị giá 30 triệu bảng và mang lợi thu nhập cá nhân 9,811 triệu bảng cho Nữ vương vào năm 2006. Thu nhập từ Tài sản Vương thất Anh – có giá trị 7 tỷ bảng – được chuyển sang ngân khố Anh của bà để chi trả cho nhân viên Vương thất. Cả Tài sản Vương thất và đất đai Vương thất tại Canada – bao gồm 89% (hoặc xấp xỉ 8.885.000 km²)[120] diện tích 9.984.670 km² của Canada – do Elizabeth sở hữu phó thác cho quốc gia vì vai trò Quốc chủ của bà, và không được phép bán hoặc sở hữu như tài sản cá nhân. Chính trị và vai trò trong chính phủ[sửa | sửa mã nguồn]
Là một vị quân chủ lập hiến, Nữ vương Elizabeth chưa từng bày tỏ quan điểm chính trị cá nhân của mình trước công chúng, và vẫn duy trì nguyên tắc này trong suốt thời gian trị vì. Nữ vương gặp gỡ Thủ tướng Anh hàng tuần, cũng như gặp gỡ các bộ trưởng khác thường xuyên. Thủ tướng Margaret Thatcher nói trong hồi ký của bà: “Bất kỳ ai tưởng tượng rằng họ là những người hình thức hoặc bị giam hãm trong khuôn khổ xã hội là lầm; họ là những doanh nhân thầm lặng và Bệ hạ là người nắm rất rõ các sự kiện đang diễn ra và có kinh nghiệm rất rộng”[121]. Sự thống nhất quốc gia Anh[sửa | sửa mã nguồn] Sau Thỏa thuận Belfast đối với Bắc Ireland, Ian Paisley, người đứng đầu Đảng Thống nhất Dân chủ, đã phá vỡ truyền thống tôn kính đối với Vương thất của những người theo Chủ nghĩa thống nhất bằng cách gọi Nữ vương là “con vẹt của Tony Blair”, ý nói sự ủng hộ của Elizabeth đối với thỏa thuận có thể là yếu tố làm suy giảm vị thế của chế độ quân chủ trong lòng những người Tin lành Bắc Ireland, mà một số không nhỏ trong số họ vẫn phản đối một vài phần của hiệp ước[122]. Sau những cuộc trưng cầu dân ý trong thập niên 1990 mà kết quả là sự ủng hộ kế hoạch tự trị, Nữ vương đã gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến Nghị viện Scotland vừa mới thành lập và Quốc hội xứ Wales, những buổi khai mạc đầu tiên do bà thực hiện với tư cách cá nhân. Sự thống nhất quốc gia Canada[sửa | sửa mã nguồn] Khi Nữ vương Elizabeth được mời đến Canada năm 1964, đây đang là đỉnh điểm của phong trào ly khai Quebec, đã có những lo ngại về an toàn cho bà. Có báo cáo rằng tổ chức khủng bố Mặt trận tự do Québec đã đe dọa sẽ ám sát bà, và người ta đã xét đến việc hủy chuyến viếng thăm[50][123]. Thư ký riêng của Nữ vương nói rằng Nữ vương rất sợ bị cản không cho công du vì “những hoạt động của những kẻ quá khích”[50]. Tuy chưa bao giờ nói thẳng là bà chống lại xu hướng ly khai, Elizabeth đã công khai ca ngợi sự thống nhất của Canada và bày tỏ mong ước tiếp tục nhìn thấy một Canada thống nhất, đôi khi gây nên tranh cãi trong một số vụ việc. Trong bài diễn văn gửi đến Quốc hội Quebec, bà bỏ qua cuộc tranh cãi quốc gia và những cuộc nổi loạn trong khi bà đang hiện diện và đã nói bằng cả tiếng Anh và tiếng Pháp về sức mạnh của hai nền văn hóa “bổ sung cho nhau” của Canada[124]. Sau Đạo luật Hiến pháp năm 1982, là “lần đầu tiên trong lịch sử Canada một sự thay đổi hiến pháp lớn đã được thông qua mà không có sự đồng ý của chính phủ Quebec, Bệ hạ đã cố gắng thể hiện vị trí là người đứng đầu toàn gia đình Canada và vai trò là người hòa giải bằng cách bày tỏ một cách riêng tư với báo giới sự tiếc nuối của bà rằng Quebec không phải là một phần của thuộc địa”[17]. Vào năm 1995, trong một chiến dịch trưng cầu dân ý về sự ly khai của Quebec, Nữ vương đã bị lừa tiết lộ quan điểm cá nhân về sự ly khai của Quebec khi Pierre Brassard, một DJ cho Đài Radio CKOI-FM Montreal, gọi đến Điện Buckingham giả vờ làm Thủ tướng Canada khi đó Jean Chrétien, và khiến cho Nữ vương Elizabeth tin và nói chuyện trong 14 phút đan xen tiếng Anh và tiếng Pháp. Khi được nói rằng những người ly khai đang dẫn đầu trong cuộc trưng cầu, Elizabeth tiết lộ bà cảm thấy “cuộc trưng cầu đang đi theo hướng sai lầm”, và thêm, “nếu tôi bằng cách nào đó có thể giúp, tôi sẽ rất vui lòng”. Tuy nhiên, bà nhấn mạnh từ chối chấp nhận lời khuyên từ người đàn ông, mà bà tin là Chrétien, rằng bà nên can thiệp vào cuộc trưng cầu dân ý mà không cần xem bài diễn văn nháp. Nữ vương cuối cùng nghi ngờ có lừa gạt và dừng cuộc nói chuyện, mặc dù tài xử lý khéo léo cuộc gọi của bà đã được Brassard tán dương[125]. Trong hồi ký của mình, Chrétien nhắc lại lời bình luận chế nhạo của Nữ vương đối với ông liên quan đến sự việc này: “‘Tôi không nghĩ ông bình thường,’ bà nói với tôi, ‘nhưng tôi nghĩ, với sức ép mà ông đang phải chịu, có thể ông đang say'”[126]. Tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn] Bên cạnh vai trò tôn giáo chính thức của mình là Lãnh đạo tối cao của Giáo hội Anh, cá nhân Elizabeth tham gia thờ phượng tại giáo hội này. Khi ở Scotland bà theo Giáo hội Scotland (Trưởng Lão phái), để giữ gìn vai trò lập hiến của mình trong quốc gia đó,[127] bà thường đi lễ Chủ nhật tại Nhà thờ Crathie khi tới nghỉ tại Lâu đài Balmoral.[128]) Định kỳ, Nữ vương sẽ gửi lời nhắn cá nhân về niềm tin của mình trong buổi phát hình Thông điệp Giáng sinh Vương thất thường niên đến Khối thịnh vượng chung, như trong năm 2000, bà đã nói về ý nghĩa thần học của thiên niên kỷ đánh dấu dịp kỷ niệm 2000 năm Chúa Giê-su sinh ra:
Đối với nhiều người trong chúng ta, niềm tin có tầm quan trọng căn bản. Đối với tôi, theo lý thuyết Kitô, và trách nhiệm cá nhân của tôi trước Chúa là nền tảng dẫn dắt cuộc đời tôi. Tôi, giống như nhiều người trong các bạn, đã có được sự an ủi lớn lao trong những thời khắc khó khăn từ những lời và huấn dụ của Chúa[129].
Nữ vương Elizabeth cũng biểu lộ sự ủng hộ mối quan hệ giữa các tôn giáo với nhau, thường là cuộc gặp với các lãnh đạo tôn giáo khác, và trao sự bảo trợ cá nhân của mình cho Hội đồng Cơ Đốc nhân và người Do Thái[130]. Yêu cầu được tôn trọng cuộc sống riêng tư[sửa | sửa mã nguồn] Elizabeth cảnh cáo báo chí đừng nên đăng tải hình ảnh không chính thức do đám thợ săn ảnh cung cấp, Cung điện Buckingham tuyên bố ngày 6 tháng 12 năm 2009. Vương thất Anh nói rằng, luật sư của triều đình trước đó sáu tuần có viết thư gửi cho chủ bút các báo, nhắc nhở họ đừng cho công bố những hình ảnh xâm phạm đến cuộc sống gia đình Vương thất. Lá thư được gửi “để đáp lại việc hằng mấy năm trời gia đình Vương thất bị các nhiếp ảnh gia săn đuổi hướng vào phần đất sở hữu riêng của Vương thất.”[131] Thái độ cứng rắn mới này của Vương thất có vẻ có kết quả tốt trong nhiều tháng, nay được nhắc đến trước dịp lễ Giáng sinh, là thời điểm mà các tay săn ảnh có truyền thống lùng kiếm những hình ảnh Vương thất về nghỉ ngơi tại Sandringham Estate, ở phía Ðông nước Anh. Gia đình Vương thất vốn có rắc rối từ lâu với các nhiếp ảnh gia. Nhiều người tin rằng sự săn đuổi của giới truyền thông đã góp phần vào cái chết của Công nương Diana trong tai nạn xe vào năm 1997. Sau đó, hai Vương tử William và Harry bị chụp hình khi họ vừa từ các hộp đêm đi ra, và bạn gái của William là Kate Middleton cũng bị rượt sát ngay bên ngoài nhà mình.[132] Năm 2007, phát ngôn viên của Vương tử William có than phiền về hành vi “nguy hiểm” của các tay săn hình. Phát ngôn viên của Thái tử Charles, Paddy Harverson nói với tờ The Sunday Telegraph rằng, thành viên gia đình Vương thất “cảm thấy họ có quyền được sống riêng tư mỗi khi họ cần đi đây đó hằng ngày, hay có những sinh hoạt riêng tư.”[133]
21 tháng 4 năm 1926 – 11 tháng 12 năm 1936: Her Royal Highness Công chúa Elizabeth xứ York 11 tháng 12 năm 1936 – 20 tháng 11 năm 1947: Her Royal Highness Công chúa Elizabeth 20 tháng 11 năm 1947 – 6 tháng 2 năm 1952: Her Royal Highness Công chúa Elizabeth, Nữ Công tước xứ Edinburgh 6 tháng 2 năm 1952 – 28 tháng 5 năm 1953: Her Majesty Nữ vương Elizabeth đệ Nhị, bởi Ân điển của Chúa, của Vương Quốc Liên Hiệp Anh và Bắc Ireland và các Thuộc địa bên kia đại dương, Nữ Hoàng và Người bảo vệ Đức Tin 29 tháng 5 năm 1953 – Nay: Her Majesty Nữ vương Elizabeth đệ Nhị, bởi Ân điển của Chúa, của Vương Quốc Liên Hiệp Anh và Bắc Ireland và các Vương Quốc và Lãnh Thổ khác, Nữ Hoàng, Lãnh đạo khối Thịnh Vượng Chung và Người bảo vệ Đức Tin Nữ vương Elizabeth giữ một số tước hiệu trong cuộc đời, với vai trò cháu gái của Vua, con gái của Vua, qua tước hiệu của chồng, và cuối cùng là Vua của nhiều quốc gia. Trên thực tế, bà thường được gọi đơn giản là Nữ vương hay Bệ hạ (Her Majesty); nếu cần phân biệt, người ta sẽ đổi thành Anh quốc Bệ hạ, Úc quốc Bệ hạ, Canada Bệ hạ, v.v. Theo truyền thống, bà còn có các tước hiệu khác là Công tước xứ Lancaster và Công tước xứ Normandy, và được phong danh hiệu Người bảo vệ Sự thật. Khi nói chuyện với Nữ vương, thông thường người ta sẽ bắt đầu bằng Your Majesty (Thưa bệ hạ) và sau đó là Ma’am. Huân chương và các chức vụ quân sự danh dự[sửa | sửa mã nguồn] Với cương vị quốc chủ của nhiều quốc gia khác nhau, Nữ vương Elizabeth giữ vị trí Tổng tư lệnh ở một số vương quốc của bà, như Canada[134], New Zealand, và Vương quốc Anh[135]. Ở Anh, bà còn là Trưởng tư lệnh Không lực Vương thất và Lord High Admiral của Hải quân Vương thất. Elizabeth đã từng là Colonel-in-Chief, Captain-General, Air-Commodore-in-Chief, Commissioner, Brigadier, Commandant-in-Chief, và Royal Colonel của ít nhất 96 trung đoàn khắp Khối thịnh vượng chung, cả trước và sau khi lên ngôi. Do thời gian trị vì dài và đi thăm viếng nhiều nơi, Elizabeth đã nhận được rất nhiều huân huy chương từ các quốc gia trên khắp thế giới. Phù hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
Phù hiệu của Công chúa Elizabeth, trước khi kết hôn.
Cờ hiệu của Nữ vương tại Vương quốc Anh, Bắc Ireland và Xứ Wales.
Từ ngày 21 tháng 4 năm 1944 cho đến khi kết hôn với Công tước xứ Edinburgh[136], phù hiệu của Elizabeth là một hình thoi có hình ảnh giống như trên tấm khiên của Huy hiệu Vương thất, và một thanh bạc gồm ba dải, dải ở giữa là hình Hoa hồng Tudor và dải hai bên là thánh giá Thánh George. Sau khi kết hôn, các phù hiệu này được đóng vào phù hiệu của Công tước xứ Edinburgh. Khi lên ngôi Nữ vương[137], với vai trò là quân chủ của các vương quốc Khối thịnh vượng chung, bà sử dụng phù hiệu quân chủ khác nhau cho mỗi quốc gia. Tương tự, Nữ vương Elizabeth cũng có một số cờ hiệu cá nhân để sử dụng tại một số vương quốc của bà: hai cái tại Vương quốc Anh (một cho Scotland và một cho các khu vực khác), và mỗi cái khác nhau cho Canada, Úc, New Zealand, Jamaica và Barbados. Những cờ này gồm có băng rôn trên đó là Phù hiệu Vương thất, tất cả đều như vậy ngoại trừ những lá cờ tại Vương quốc Anh, bị xóa đi bằng ký hiệu của Elizabeth: một chữ cái E đội vương miện trong một vòng tròn hoa hồng trên nền xanh. Ký hiệu này cũng được dùng làm cờ cá nhân của Nữ vương với vai trò là Người đứng đầu Khối thịnh vượng chung, hoặc khi thăm viếng các quốc gia nằm trong Khối nhưng bà không phải là nguyên thủ.
Tên Ngày sinh Kết hôn Ly dị Con cái Cháu Charles, Thân vương xứ Wales 14 tháng 11 năm 1948 29 tháng 7 năm 1981 Diana, Công nương xứ Wales 28 tháng 8 năm 1996 Vương tử William, Công tước xứ Cambridge Vương tử George xứ CambridgeCông chúa Charlotte xứ CambridgeVương tử Louis xứ Cambridge Vương tử Harry, công tước xứ Sussex
9 tháng 4 năm 2005 Camilla, Nữ công tước xứ Cornwall
Anne, Công chúa Vương thất 15 tháng 8 năm 1950 14 tháng 11 năm 1973 Mark Phillips 28 tháng 4 năm 1992 Peter Phillips Savannah PhillipsIsla Phillips Zara Phillips Mia Tindall 12 tháng 12 năm 1992 Timothy Laurence
Vương tử Andrew, Công tước xứ York 19 tháng 2 năm 1960 23 tháng 7 năm 1986 Sarah, Công nương xứ York 30 tháng 5 năm 1996 Công chúa Beatrice xứ YorkCông chúa Eugenie xứ York
Vương tử Edward, Bá tước xứ Wessex 10 tháng 3 năm 1964 19 tháng 6 năm 1999 Sophie, Nữ Bá tước xứ Wessex
Lady Louise WindsorJames, Tử tước Severn
Tổ tiên của Elizabeth II
^ Brandreth, p.103 and Roberts, p.74 ^ Brandreth, p.103 ^ “Queen ‘Lilibet’ letters unveiled”. BBC. 27 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2009.  ^ Pimlott, Ben (1997). The Queen: A Biography of Elizabeth II. John Wiley & Sons. ISBN 047119431X. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.  ^ Rose, Kenneth (1983). King George V. London: Weidenfeld and Nicolson. tr. 389. ISBN 0-297-78245-2.  ^ “The Real Crawfie”. Channel 4. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2007.  ^ Shawcross, p.21 ^ Quoted in Brandreth, pp.108–110 ^ Quoted in Brandreth, p.105 and Shawcross, pp.21–22 ^ Quoted in Brandreth, pp.105–106 ^ Bond, p.8 ^ Brandreth, p.124; Shawcross, p.25 ^ “Queen’s decision no snub: royal aides”. CBC News. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2005.  ^ a ă â “80 Things You (Probably) Didn’t Know About Queen Elizabeth”. Time Europe. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2006.  ^ “Buckingham Palace press releases-Diary of events in the life of Her Majesty the Queen leading up to her accession”. Official Website of the British Monarchy. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2008.  ^ “Royal Support for the Scouting and Guiding Movements”. Official Website of the British Monarchy. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2008.  ^ a ă â b c “Elizabeth II, Queen of Canada”. Canadian Royal Heritage Trust. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2007.  ^ Brandreth, pp.133–139 ^ Bond, p.10 and Brandreth, pp.132–136, 166–169 ^ “Biography of HM Queen Elizabeth the Queen Mother: Activities as Queen”. British Monarchy Official Website. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.  ^ “Royal plans to beat nationalism”. BBC. 8 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2007.  ^ “Her Majesty the Queen – Early Public Life”. Official website of the British Monarchy. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2009.  ^ “Left Out of D-Day Events, Queen Elizabeth Is Fuming”, New York Times, 27 tháng 5 năm 2009 ^ Bond, p.10 ^ Princess Elizabeth (21 tháng 4 năm 1947). “Historic speeches: 21st birthday speech”. British Monarchy Official Website. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2007.  ^ Davies, Caroline (ngày 20 tháng 4 năm 2006). “Philip, the one constant through her life”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2007.  ^ Royal Insight Magazine: Behind-the-Scenes at the Royal Wedding of 1947 ^ Bond, p.19 ^ a ă â “BBC NEWS | UK | Sixty facts about a royal marriage”. News.bbc.co.uk. Cập nhật lần cuối:. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.  Lỗi chú thích: Thẻ không hợp lệ: tên “news1” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác ^ Bradford, Sarah (1989). King George VI. London: Weidenfeld and Nicolson. tr. p.424. ISBN 0297796674.  ^ “Letters Patent, 22 tháng 10 năm 1948”. Heraldica. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2007.  ^ London Gazette: (Supplement) số 41948, tr. 1003, 5 tháng 2 năm 1960. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2007. ^ Brandreth, pp.226–238 ^ Brandreth, pp.240–241 ^ Brandreth, pp.245–247; Lacey, pp.150–151; Shawcross, p.16 ^ Charteris quoted in Shawcross, p.17 ^ Bond, p.22 and Brandreth, p.271 ^ Robert, p.82 ^ “By appointment: Norman Hartnell’s sample for the Coronation dress”. Nga.gov.au. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.  ^ Brandreth, p.278; Shawcross, p.59 ^ Challands, Sarah (ngày 25 tháng 4 năm 2006). “Queen Elizabeth II celebrates her 80th birthday”. CTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2007.  ^ “The Real Queen”. Ngày 1 tháng 1 năm 2002.  ^ a ă “France and UK considered 1950s ‘merger’”. The Guardian. Ngày 15 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2007.  ^ a ă Roberts, p.84 ^ Shawcross, p.75 ^ Lord Altrincham in National Review quoted by Brandreth, p.374 and Roberts, p.83 ^ Brandreth, p.374; Shawcross, p.76 ^ Toàn văn bài phát biểu ^ Shawcross, p.83 ^ a ă â b “Courage of the Queen”. Canadian Royal Heritage Trust. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2007.  ^ “Transatlantic phone cable officially opened”. CBC. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2008.  ^ Bond, p.66 ^ “The Queen and The Duke of Edinburgh visit the UK headquarters of Google”. Royal Insight (Buckingham Palace) (tháng 10 năm 2008). 16 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2008.  ^ Shawcross, pp.109–110 ^ Bond, p.96; Shawcross, p.110 ^ “The Whitlam Dismissal: Letter from the Queen’s Private Secretary”. Whitlamdismissal.com. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.  ^ 1977 “Queen celebrates Silver Jubilee”. BBC News: On This Day.  ^ Roberts, pp.88–89; Shawcross, p.178 ^ Roberts, pp.88–89 ^ a ă â b Heinricks, Geoff (ngày 29 tháng 9 năm 2000). “Trudeau: A drawer monarchist”. National Post (Toronto). tr. B12.  Lỗi chú thích: Thẻ không hợp lệ: tên “Post” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác ^ CBC. “The Greatest Canadian: Pierre Elliot Trudeau”. CBC. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2004. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2008.  ^ Trudeau, Pierre Elliott (1993). Memoirs. McLelland & Stewart. ISBN 0771085885. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.  ^ Shawcross, p.192 ^ Davidson, Spencer. “God Save the Queen, Fast”, Time (26 tháng 7 năm 1982), p. 33. ^ Bond, p.115 ^ Shawcross, p.127 ^ Bond, p.188 ^ Campbell, John (2003). Margaret Thatcher: The Iron Lady. Jonathan Cape. ISBN 0224061569.  ^ Shawcross, pp.129–132 ^ “Newspaper Says Queen Is Upset by Thatcher”. The New York Times. Ngày 20 tháng 7 năm 1986.  ^ “Atticus”. The Sunday Times. Ngày 9 tháng 10 năm 2005.  ^ Bridcut, John (Producer). Queen and Country (PDF) (Documentary). BBC. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2009.  ^ Roberts, p.101; Shawcross, p.139 ^ Brandreth, p.349 ^ Brandreth, p.377; Roberts, p.94; Shawcross, p.204 ^ Brandreth, p.377 ^ Brandreth, p.356; Roberts, p.94; Shawcross, p.168 ^ Brandreth, p.357 ^ Brandreth, p.358 ^ a ă â Bond, p.134 ^ Brandreth, p.358; Bond, p.134; Roberts, p.98; Shawcross, p.8 ^ Brandreth, pp.358–359 ^ a ă Bond, p.134 and Brandreth, p.359 Lỗi chú thích: Thẻ không hợp lệ: tên “b&b” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác ^ “Queen Elizabeth feels snubbed by Blair”. Sify. Ngày 23 tháng 6 năm 2004.  ^ Alderson, Andrew (ngày 28 tháng 5 năm 2007). “Revealed: Queen’s dismay at Blair legacy”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007.  ^ Alderson, Andrew (ngày 27 tháng 5 năm 2007). “Tony and Her Majesty: an uneasy relationship”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2007.  ^ “In Depth: The Golden Jubilee”. BBC News.  ^ Brandreth, p.31 ^ “BBC NEWS | Northern Ireland | Historic first for Maundy service”. News.bbc.co.uk. Cập nhật lần cuối:. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.  ^ Leyland, Joanne (ngày 11 tháng 10 năm 2006). “The Queen Proves She’s A Real Trooper”. The Royalist. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2006.  ^ “Queen cancels visit due to injury”. BBC News. Ngày 26 tháng 10 năm 2006.  ^ Greenhill, Sam and Hope, Jenny (ngày 6 tháng 12 năm 2006). “Plaster on Queen’s hand: minor cut or IV drip?”. Daily Mail.  ^ Whittaker, Thomas (ngày 14 tháng 12 năm 2006). “Corgi put the queen in plaster”. The Sun.  ^ a ă English, Rebecca (ngày 20 tháng 4 năm 2006). “’The Queen will NEVER consider abdicating’”. Daily Mail. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2006.  ^ “Key aides move to Windsor ahead of Queen’s retirement| News | This is London”. Thisislondon.co.uk. London. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.  ^ http://www.royal.gov.uk/output/page3956.asp Royal.gov.uk – Corrections ^ “Extra bank holiday to mark Jubilee”. Press Association. Ngày 5 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2010.  ^ Department of Canadian Heritage (ngày 22 tháng 6 năm 2010). “Government of Canada Commissions New Canadian Portrait of Her Majesty The Queen”. Queen’s Printer for Canada. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2010.  ^ Office of the Prime Minister of Canada (ngày 9 tháng 2 năm 2011). “PM unveils Diamond Jubilee Medal design to honour Canadian contributions”. Queen’s Printer for Canada. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2011.  ^ Department of Canadian Heritage. “Topics > Monarchy in Canada > Queen’s Diamond Jubilee”. Queen’s Printer for Canada. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2011.  ^ “Queen ‘will do her job for life’”. BBC News. Ngày 19 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2007.  ^ Shawcross, pp.194–195 ^ Cartner-Morley, Jess (ngày 10 tháng 5 năm 2007). “Elizabeth II, belated follower of fashion”. The Guardian (Guardian Media Group). tr. p2, G2 section. ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007.  ^ Bond, p.22 ^ Bond, p.35; Roberts, p.82; Shawcross, p.50 ^ Bond, p.35; Shawcross, p.76 ^ Bond, pp.66–67, 84, 87–89 and Roberts, pp.84–86 ^ Bond, p.97; Roberts, p.87; Shawcross, pp.114–117 ^ Bond, p.117 and Roberts, p.91 ^ Roberts, p.101; Shawcross, p.218 ^ Bond, p.156 ^ Bond, pp.166–167 ^ Bond, p.157 ^ Bansal, Shaveta. “Poll: Queen Elizabeth “Most Popular Royal””. All Headline News. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2006.  ^ Monarchy poll, Ipsos MORI, Tháng 4 năm 2006, truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2008  ^ “The World’s Richest Royals – Forbes.com”. Forbes.com. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.  ^ The Queen’s Personal Wealth, Official web site of the British monarchy, truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2008  ^ “The Royal Collection – What is the Royal Collection?”. Royalcollection.org.uk. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.  ^ “The Royal Collection > About the Royal Collection”. Royal.gov.uk. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.  ^ V.P. NEIMANIS. “Crown Land”. The Canadian Encyclopedia: Geography. Historica Foundation of Canada. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2007.  ^ Thatcher, M. (1993). The Downing Street Years (p. 18) New York: HarperCollins. ISBN 0-06-017056-5 ^ “’The Queen is a parrot’ – Paisley”. BBC News. Ngày 26 tháng 5 năm 1998.  ^ Speaight, Robert (1970). Vanier, Soldier, Diplomat and Governor General: A Biography. Collins. ISBN 0002622521.  ^ “1964 Quebec visit – speech”. CBC.  ^ Bousfield, Arthur (tháng 4 năm 1996). “A Queen Canada Should be Proud Of”. Monarchy Canada.  ^ Thompson, Elizabeth (ngày 14 tháng 10 năm 2007). “Chretien’s Revenge”. The Gazette. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2007.  ^ “Queen, State and Kirk”. Church of Scotland official website. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2010.  ^ “Kirk’s invite leads Queen to break Sunday tradition”. The Scotsman newspaper. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2010.  ^ Elizabeth II (ngày 25 tháng 12 năm 2000). “Historic speeches: Christmas Broadcast 2000”. British Monarchy Official Website. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2007.  ^ “Presidents, Vice Presidents and Board”. Council of Christians and Jews. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2007.  ^ [1] ^ [2] ^ [3] ^ Constitution Act 1867; III.15, Queen’s Printer for Canada, 1867  ^ “The Monarchy Today: Queen and State: The Queen and the Armed Forces”. Buckingham Palace. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2008.  ^ “Marks of cadency in the British royal family”. Heraldica.org. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.  ^ “Her Majesty The Queen”. Britishflags.net. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008. 
Allison, Ronald; The Queen: 50 Years – A Celebration; HarperCollins UK (1 tháng 10 năm 2001) (ISBN 0004140788) Bousfield, Arthur; Toffoli, Gary (2002). Fifty Years the Queen – A Tribute to Elizabeth II on Her Golden Jubilee. Hamilton: Dundurn Press. ISBN 9781550023602.  Erickson, Carolly; Lillibet: An Intimate Portrait of Elizabeth II; St. Martin’s Press; 1st edition (26 tháng 1 năm 2004) (ISBN 0-312-28734-8) Lacey, Robert (2002). Royal: Her Majesty Queen Elizabeth II. London: Little, Brown. ISBN 0748104097.  Lacey, Robert; Monarch: The Life and Reign of Elizabeth II; Free Press (6 tháng 5 năm 2003) (ISBN 0-7432-3669-6) Noakes, Michael & Noakes, Vivien; The Daily Life of the Queen: An Artist’s Diary; Trafalgar Square (2001) (ISBN 0-09-186982-X) Pimlott, Ben; The Queen: Elizabeth II and the Monarchy; Harper Collins;revised edition (2007) (ISBN 0-007-11436-2) Waller, Maureen; Sovereign Ladies: Sex, Sacrifice, and Power. The Six Reigning Queens of England; New York, St. Martin’s Press (2006) (ISBN 0-312-33801-5) Jubilee A Celebration of 50 Years of the Reign of Her Majesty Queen Elizabeth II; Cassell & Co (2002) (ASIN B000BMS0UE)
Tiếng Anh[sửa | sửa mã nguồn]
Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Elizabeth II Tiếng Việt[sửa | sửa mã nguồn] Danh hiệu và kế vị
Source link
0 notes
mistarurdd · 11 months
Text
/Allan o gymeriad (/Out of character)
FYND I'R STEDDFOD YFORY!!!
GOING TO THE EISTEDDFOD TOMORROW
2 notes · View notes
Eryri Centre re Excellence: Gwersyll yr Urdd Glan-llyn
On the banks of Llyn Tegid at Llanuwchllyn, near Bala, is Gwersyll yr Urdd Glan-llyn, one of Urdd Gobaith Cymru's activity centres for children. One with regard to four Urdd residential centres close upon Wales, Glan-llyn gives children an opportunity to serve an apprenticeship and socialise during the spokesman about Welsh.
Urdd Gobaith Cymru - The Welsh League in relation to Youth, ochry "the Urdd", as it's more mainly referred to - began its life in 1922 anon its founder, Sir Ifan ab Owen Edwards - a resident of Llanuwchllyn - wanted in order to find a way to coadjutor new generation and young stay at to keep the Welsh language alive. All off the Urdd the unsophisticated people with respect to Wales have the opportunity to live vibrant lives through the medium of the Goldbrick language, while learning to have respect for apiece other and for all people around the world.
The Urdd organises all sorts in respect to activities for children throughout Wales. Its development officers ensure there is a full programme touching activities for Wales' youth, and inside of the organisation's 90-year former times some of its members have gone on to become commonly known personalities (over and above the newsreader Huw Edwards, the opera singer Bryn Terfel, and Blaenau Ffestiniog resident and Big Brother contestant Glyn Lineaments).
The Urdd has 50,000 members; in fact, a third anent Welsh speakers aged 8-18 are members of the Urdd. Of these members, a fourth have learnt Dishonor (that is, it's not their mother blow a horn). For well as having a vast membership, a further 10,000 people work as Urdd volunteers, faithful clout 900 branches across the homeland, bringing the huge benefits of Urdd membership to as many communities as possible.
Urdd Gobaith Cymru organises all sorts of activities in consideration of Welsh-speaking children and young people, excepting sports clubs, courses and matches to activity holidays ingressive the Urdd's residential centres. The Urdd transcendental has its own annual Eisteddfod, which in 2012 - the Urdd's 90th anniversary - will be unspent harmony Snowdonia, at Glynllifon with Caernarfon. The Urdd Eisteddfod is the largest youth arts festival in South america, where 15,000 children and young people buffet the waves in sparkling, dancing, acting and poetry competitions; worlds like the National Eisteddfod, but with much younger competitors!
At Gwersyll yr Urdd Glan-llyn, children and young people get to take wanting in a boundless variety of fun activities, through courses, summer camps and weekend breaks. Whether Welsh is their first ermine second language, young visitors over against Glan-llyn place the opportunity to contend for their government at an exciting range of watersports and other outdoor activities. Some of the activities on offer at Glan-llyn include kayaking, ballooning, high wire courses, gorge walking, mat water rafting, cruising and canoeing. There's also a climbing zigzag fence, decameter pin bowling, and a disco hall - so the evenings are rightful as fun-filled ad eundem the days!
Although Gwersyll yr Urdd Glan-llyn is mostly used by children and young people, it also welcomes day visitors and offers many in reference to its furnishings to the low-camp. And there is a fantastic separateness of courses on offer; these reckon with a spacious range as regards outdoor carriage courses, by what mode well as Skulk language courses for children and considering adults. Welsh is very widely spoken pending Snowdonia, so if you're planning a visit to the region and would copied to learn to speak this appealing chronic language while having a fun, active break, Glan-llyn is the ideal place to knead the two!
Gwersyll yr Urdd Glan-llyn is about four miles from Bala, a enthralling market town in Southern Snowdonia. If you're planning a gain admittance to Glan-llyn, it's worth exploring the urban, which has a sensuous history reaching back at least as away in that the Roman occupation re Wales. The town's medieval street foresight is still jolly evident, with a brisk muted autoroute that boasts a gigantic range of restaurants, inns and shops. The stake and limiting areas boast several sites of unerroneous and architectural interest, and with the largest natural lake in Wales - Llyn Tegid - in hand its doorstep, Bala the quixotry base if you're planning a water sports break in Snowdonia.
0 notes
mistarurdd · 1 year
Text
Wel, pawb, roedd na'n rywbeth!
Cafodd Carlo a'i ceffyl (Camilla) ei goronau a roedd blydi Justin Welby yn wafflan mlan am oesoedd!! Beth yn y byd??
Roedd Bryn Terfel'n dda, tho.
Gontiau fach. DWI YW'R BRENIN WIR!!
6 notes · View notes
mistarurdd · 2 years
Text
BORE WAEL DYMA FY MICSTAPE LLAWN BANGARS I CAEL RHYW I
7 notes · View notes
mistarurdd · 2 years
Text
machlud mecsico newydd wych. rwy’n eistedd ar bont efo fy ffrind rapsgaliwn o cyw. mae e i gyd yn oren ac yn binc uwchben ni. aethon ni i parc ddwr arall. rwy’n caru wneud pump uchel eto. bendant nol mewn cariad. wnes i weld y ffilm orau. credaf mae’n or enw how green was my valley. wyliwch o.
2 notes · View notes
mistarurdd · 11 months
Text
fi ar ol pobl yn aciwso fi o fod yn tuedd yn yr eisteddfod at y gogs: 'faint mor wa-a-a-a-ael gallaf fod? dwi jyst yn neud be sy'n dod yn naturiol'
1 note · View note
mistarurdd · 2 years
Text
Ydw i'n edrych diwrnod dros 20?!?
Tumblr media
13 notes · View notes
mistarurdd · 2 years
Text
Rwy'n gwybod fod parti pen blwydd FI yn mwy pwysig na diwrnod Santes Dwynwen ddoe, ond dal
Tumblr media
Ydyn ni'n Cwpwl Gôls neu beth!?
8 notes · View notes
mistarurdd · 2 years
Text
Rydw i wedi cael digon o pobl ffug yn fy ngadael i. Rydw i wedi cael fy mrifo gormod o weithiau.
2 notes · View notes